Hãy sống vui vẻ với những điều ta yêu thích,những điều ta muốn khám phá,những việc ta muốn làm trong khuôn khổ cho phép của thời gian!

Thứ Hai, 25 tháng 3, 2013

DÒNG HỌ CỔ VIỆT NAM

Đó là dòng họ duy nhất còn giữ lại được ngọc phả chứng minh cụ tổ của dòng tộc mình đã được sinh ra và có công giúp Hùng Vương dựng nước và giữ nước.
    “Nếu đến năm 2015 mà dòng họ Nguyễn và dòng họ Cao không tìm được thấy ngọc phả của mình, thì dòng họ Ma sẽ được ghi nhận là dòng họ lâu đời nhất ở Việt Nam”, ông Ma Ngọc Bảo, tộc trưởng dòng họ Ma ở Phú Thọ tự hào cho biết.
    Huyền tích Ma tộc, Ma Thành
    Một chiều đầu xuân nắng nhẹ, nhân có chuyến công tác tại TP. Việt Trì, Phú Thọ, tôi chạy xe lòng vòng dạo quanh nơi các Vua Hùng đã có công dựng nước cho con cháu rồng tiên ngàn đời an cư lạc nghiệp. Bất chợt trong giây lát, tôi nhớ đến một dòng họ mà người ta vẫn nôm na định nghĩa về nó là dòng họ duy nhất ở Việt Nam hiện nay có ngọc phả từ thời Hùng Vương. Tò mò những câu chuyện về một dòng họ xuất hiện từ thời đại mở nước, tôi quay xe vòng qua phường Gia Cẩm, nơi gia đình ông tộc trưởng dòng họ sinh sống theo lời chỉ dẫn của những người dân nơi đây. Họ khẳng định: “Muốn nghe chuyện dòng họ Ma thì chỉ có đến nhà ông Ma Ngọc Bảo”.
    Đền Trù Mật ở thị xã Phú Thọ, nơi thờ tộc trưởng đời thứ 43 và còn lưu giữ thanh đao của dòng họ.
    Đền Trù Mật ở thị xã Phú Thọ, nơi thờ tộc trưởng đời thứ 43 và còn lưu giữ thanh đao của dòng họ.
    Dáng cao gầy, khuôn mặt rạng rỡ với nụ cười thân thiện, ông Bảo trẻ hơn rất nhiều so với cái tuổi 76 mà tôi được biết. Thấy tôi giới thiệu là phóng viên, muốn đến nghe ông chia sẻ những câu chuyện thú vị quanh dòng họ của mình, nét mặt ông ánh lên niềm tự hào khó diễn tả. Ông mời tôi ngồi, pha tách trà nóng và đi ngay lên tầng ba mang xuống một tập tài liệu dày. Ông cười mà rằng: “Không có cái này, mình khó ăn nói với thiên hạ về việc dòng họ đã có từ thời Vua Hùng lắm”.
    Ông Bảo cho biết: “Trong mười tám chi họ Hùng tồn tại ở Việt Nam với gần chín mươi đời vua thì cụ tổ Ma Khê của dòng họ là con Hùng Nghị Vương thứ ba năm 354 trước Công nguyên, thuộc đời Hùng Vương thứ 17. Họ Ma là người dân tộc Tày, định cư chủ yếu ở vùng núi Đọi, ven sông Thao, nay thuộc đất Cẩm Khê, Phú Thọ. Cụ tổ Ma Khê là người tài đức song toàn, từ nhỏ đã bộc lộ nhiều khả năng xuất chúng. Năm 18 tuổi, ông đã thay cha giữ chức tộc trưởng đứng đầu bộ tộc Tày núi Đọi. Đến đời Hùng Vương thứ 18, gặp lúc trong nước có giặc, ông đã mang dân binh Ma tộc về giúp vua Hùng đánh giặc, lập nên nhiều chiến công lớn, được Hùng Duệ Vương yêu mến và phong chức Đại tướng quân. Sau đó, ông được giao nhiệm vụ trấn thủ đất Phong Châu, đóng quân ở ngã ba sông Bạch Hạc. Với nhiều công lao to lớn, Ma Khê được Hùng Duệ Vương thứ hai phong cho đến chức Phụ Quốc Ma Vương Đại Thần, Đại Tướng Quân và triệu về triều đình giúp vua trị nước an dân.
    Nhân dân bộ tộc núi Đọi rất tự hào về ông và dần dần người ta tự đổi tên vùng đất mình sống thành đất Ma Khê. Bất cứ ai, đi đến đâu chỉ cần nói là người vùng Ma Khê thì thiên hạ cúi đầu nể phục. Trải qua hàng nghìn năm, vùng đất này được mở rộng và thành tên Ma Khê. Đến thời đất nước chia nhiều quận huyện thì gọi là huyện Ma Khê, có triều đại đổi thành huyện Hoa Khê, và cuối cùng là cái tên Cẩm Khê như ngày nay.
    Sau đời cụ tổ Ma Khê thành danh, có nhiều công lao giúp rạng danh vua Hùng, họ Ma đã lui về ở ẩn và chuyên tâm làm nông nghiệp. Đến đời thứ 43 của dòng họ, Ma Xuân Trường (930 – 966) đã lại một lần nữa giúp dòng tộc họ Ma trở nên rạng danh với nước nhà. Đó là vào thời điểm khi nhà Ngô tan rã, đất nước ta rơi vào loạn mười hai sứ quân. Vùng phía Bắc lúc này do một người là Kiều Thuận cai quản với một vị tướng dưới quyền là Ma Xuân Trường. Trong loạn chiến, khi Kiều Thuận bị thương, Ma Xuân Trường đã kịp thời giải cứu và đưa cả họ tộc chạy lên vùng Tuần Quán, Yên Bái và tạ thế tại đây. Hiện nay, ở Yên Bái vẫn còn di tích đền thờ ông. Sau khi lên ngôi, Đinh Bộ Lĩnh đã không truy cứu Kiều Thuận mà còn phong danh hiệu Trung quân ái quốc và ban cho dân lập đền thờ tại TX. Phú Thọ ngày nay.
    Cụ tổ Ma Khê là một trong bốn vị tướng quốc nổi tiếng thời đại Hùng Duệ Vương. Ba vị còn lại bao gồm Cao Sơn, Quý Minh và Nguyễn Tuấn. Tuy nhiên, do dòng họ Nguyễn và dòng họ Cao chưa tìm thấy ngọc phả của mình nên trên danh nghĩa thì dòng họ Ma vẫn được ghi nhận là dòng họ tồn tại lâu đời nhất ở Việt Nam cho đến nay. Ông Bảo tự hào cho biết: “Sau nhiều nghiên cứu và trải qua các cuộc hội thảo được thẩm định bởi nhiều nhà sử học nổi tiếng trong nước đã công bố thì đến năm 2015, nếu như không có dòng họ nào tìm được ngọc phả, dòng họ Ma sẽ là dòng họ duy nhất được công nhận là đã tồn tại từ thời vua Hùng. Đây là một vinh dự lớn cho dòng họ Ma ở Việt Nam”.
    Dòng họ duy nhất còn ngọc phả từ thời Hùng Vương
    Ông Bảo lần giở những trang chữ viết tay nắn nót gọn gàng xúc tích ghi đầy đủ tên, năm sinh, năm mất của 79 đời dòng họ Ma tồn tại ở Việt Nam từ xưa đến nay. Ông cho biết: “Đến đời cháu nội tôi hiện giờ là đời thứ 79 của dòng họ. Cũng may thời chiến tranh, khi các bản gốc của gia phả bị thất lạc thì thân sinh của tôi là cụ Ma Văn Thực (1917 – 2004) đã kịp chuyển tải tất cả các thông tin sang chữ quốc ngữ. Đến đời tôi, khi được giao giữ trọng trách tộc trưởng đã rút kinh nghiệm hơn, tôi đem sao lưu gia phả thành nhiều cuốn và phát cho các chi nhánh dòng họ Ma ở Phú Thọ, Tuyên Quang, Yên Bái …
    Thanh đao của dòng họ Ma còn lưu giữ tại đền Trù Mật.
    Thanh đao của dòng họ Ma còn lưu giữ tại đền Trù Mật.
    Nhiều điển tích xung quanh dòng họ Ma vẫn tồn tại ở khắp vùng Phú Thọ và các tỉnh miền núi phía Bắc lân cận từ Yên Bái, sang Tuyên Quang, Lào Cai… Họ Ma khi phát triển hưng thịnh nhất thời Hùng Vương cũng đã xây dựng được thành lũy gọi là Ma Thành. Ngày nay vẫn còn một quãng dài gần 1km từ đầu ghi xe lửa đường vào đền Trù Mật xuôi xuống đến nhà máy bột sắn Phú Thọ. Nếu nhìn kỹ vẫn còn nhận rõ hình chân thành cổ Ma Thành. Trong thị xã Phú Thọ, khi nhiều người đào giếng và móng xây nhà vẫn còn thấy những viên gạch cổ to bằng viên đá ong nung chín như sành. Đó chính là dấu tích của gạch xây trên tường thành còn sót lại. Để tránh từ Ma, nhiều tên đất tên sông thời này được đổi sang Mè, nay vẫn còn làng Mè, chợ Mè, bến sông Mè… Tất cả những chứng tích đó đã giúp củng cố vào gia phả của dòng họ Ma và thêm khẳng định đây là dòng họ đã hình thành và tồn tại từ thời Hùng Vương mở nước.
    Hiện nay ở đền Trù Mật, TX. Phú Thọ – nơi thờ tộc trưởng thứ 43 của dòng họ Ma là Ma Xuân Trường vẫn còn lưu giữ những cuốn sách đã ngả màu thời gian. Chất giấy cổ từ ngàn xưa đã có phần mủn mục, có cảm giác như chỉ chạm nhẹ tay vào cũng sẽ làm cho tất cả vỡ tan hết. Bởi thế, những gì là lịch sử, là ngọc phả ở nơi đây còn sót lại được người dân nhất là con cháu dòng họ Ma vô cùng nâng niu, gìn giữ và trân trọng.
    Nhà nghiên cứu sử học Đào Duy Anh đã từng gọi truyền thuyết về Ma Khê của dòng họ Ma là “truyền thuyết khuyết sử”. Nhưng với dòng họ Ma nói riêng thì câu chuyện truyền thuyết ấy lại có ý nghĩa vô cùng to lớn và là niềm tự hào của mỗi người con dòng họ.
    (BNDT)

    Tin liên quan
    Lịch sử Việt Nam

    Chủ Nhật, 10 tháng 3, 2013

    Cách đặt tên các dân tộc Việt Nam

    CÁCH DÙNG HỌ VÀ TÊN
    CỦA CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM


    NGUYỄN KHÔI
    LỜI DẪN :
    Nguyễn Khôi vừa cho phát hành cuốn Các Dân Tộc Ở Việt Nam Cách Dùng Họ Và Đặt Tên , Nhà Xuất Bản Văn Hoá Dân Tộc, Hà Nội - 2006 . Cách dùng họ và đặt tên của Việt nam rất độc đáo , nó mang đặc sắc văn hoá Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước.Chúng tôi xin trích giới thiệu 6 bài trên 54 bài về giải mã họ và tên 54 tộc người ở Việt nam.
    - Dân tộc Ê Đê
    - Dân tộc Chăm
    - Dân tộc Thái - Dân tộc Mường
    - Dân tộc Mông
    - Dân tộc Khơ Me


    1 - DÂN TỘC ÊĐÊ
    Ê Đê có nghĩa là người sống trong rừng tre . Dân tộc Ê Đê có trên 270 nghìn người , cư trú tập trung ở Đắc Lắc , Gia Lai , Khánh Hoà và Phú Yên.

    Các nhóm địa phương gồm : Rađe Đe, Kpa, Adham, Krung, Ktul, Đlie, HrueBlô, Epan, Mdhuna,Bih.

    Về kinh tế đồng bào này làm nương rẫy , nhóm Bih làm ruộng nước dùng trâu giẫm đất thay cho cày cuốc , ngoài ra là chăn nuôi, săn bắn , dệt...

    Tổ chức đời sống chặt chẽ. Làng gọi là " Buôn" , các địa danh gọi tên rất gợi như " Buôn chư mơ ga " nghĩa là làng núi lửa., Sông Đực, Sông Cái , Sông Tóc... Gia đình theo mẫu hệ, chủ nhà là phụ nữ . Con cái mang họ mẹ , con trai không được hưởng thừa kế. đàn ông ở nhà vợ. Nếu vợ chết mà bên nhà vợ không còn ai thay thế thì người chồng phải về ở với chị em gái mình. Nếu chết , được chôn bên người thân của mẹ đẻ.

    Nhà ở của người Êđê là nhà sàn và nhà sài. Trang phục màu chàm có điểm các hoa văn sặc sỡ . đàn bà mặc váy áo , đàn ông đóng khố mặc áo . Ngày xa có tục cà 6 răng cửa hàm trên. Người Êđê rất thích uống rượu cần , đặc biệt là vào các dịp lễ tết. Về tín ngưỡng , thờ nhiều thần linh. Người Êđê có kho tàng văn hoá đồ sộ to lớn như các sử thi " Khan Đam San " , cồng chiêng cũng rất nổi tiếng , đã được Unesco công nhận là văn hoá phi vật thể của nhân loại.

    Người Êđê có Lễ đặt tên. Khi đứa trẻ sinh ra trong vòng một tháng , gia đình sửa soạn đồ cúng để làm lễ đặt tên cho trẻ.Thầy cúng hướng dẫn gia đình chuẩn bị lễ vật . Họ quan niệm : Khi mới sinh ra , con người cha có hồn , nên lúc đặt tên là lúc nhập hồn cho đứa trẻ . Gia đình sẽ chọn rất nhiều tên trong dòng tộc của ông bà nội ngoại , tên những người tài giỏi , có uy tín được lấy để đặt tên cho đứa trẻ. Ý nghĩa việc này là mong trẻ mới sinh ra được nhập hồn của một trong những người tài giỏi của dòng họ. Muốn làm được như thế , người trong nhà khi đi mời thày cúng sẽ nói trước với thày cúng những tên dự kiến đó để thày cũng nhập tâm . Lễ vật cho lễ đặt tên thường là một con gà , một ché rượu . Lễ được tổ chức vào đêm khuya, khoảng 11-12 giờ đêm., khi cả buôn đã đi ngủ thì bắt đầu làm lễ . Ché rượu được đặt vào cột chính gian trước , lễ vật đặt phía đông. Thày cúng ngồi đối diện với ché rượu , quay mặt về phía đông để cúng.

    Thầy khấn: " Ơ Yàng , hiện giờ gia đình đã dâng lên một con gà , một chén rượu để làm lễ đặt tên cho con. Mời tất cả các Yàng về uống rượu , ăn thịt , giúp đỡ cho trẻ ăn no , chóng khoẻ, không khóc. Mời các ông , các bà trong dòng tộc của gia đình : Mảng , Ma Choá , Mí Thơ, Mí Thơm, Ma Đam ... về ăn thịt, uống rượu , giúp đỡ cho trẻ lớn... ". Thày cúng khấn đến tên nào, đứa trẻ không thấy khóc lại tỏ ý thích thúc (vui) thì gia đình sẽ lấy tên đó để đặt tên cho trẻ. Khi cúng xong , cả gia đình và thày cũng sẽ ăn cơm , ăn thịt gà , uống rượu . Sau khi ăn uống xong thì toàn bộ xương , lòng , lông gà , cơm dư thừa sẽ được gói lại cẩn thận, ché rượu úp xuống , bỏ lại gian khách (tiếng ÊĐê là Gah) của gia đình đúng 3 ngày . Sở dĩ làm thế , bởi người Êđe quan niệm rằng con người khi mới sinh còn rất yếu ớt, mới được nhập hồn người chết còn rất mỏng , nên phải giữ tất cả những lễ vật đã cúng đúng 3 ngày rồi mới mang đi thả xuống suối. Khi đó hồn mớí nhập hoàn toàn vào trẻ mới sinh.

    Các họ của người Êđê :

    Adrâng, Ayun, Ayun C, Ayun Tul H, Wing Atul, Atul Buon Yah, Buon Krong , Duot, Eban, Eban Rah Lan, Eman, Emo, Enoul, Hđok, Hrue, Hmok, Hwing, Jdrong, Ktub, Kebour, Knul, Kpa, Kpor, Ksor, Ktla, Ktul, Mjao, Mlo, Mlo Duon Du , Mlo Hut, Mlo Ksei, Nie Blo, Nie Buon Dap, Nie Buon Rit, Nie Cam , Nie Mkriek, Nie Mla, Nie Mlo, Nie Sieng, Nie Sor , Nie Sok , Nie To, Nie Trang ...

    Xin có ví dụ :

    . Nam : Y Ngong Nie Dam ( 4 chữ này có nghĩa là Trai - Tên - Họ - Chi họ)
    . Nữ : Hlinh Mlo Duon Du ( 4 chữ này có nghĩa là Gái -Tên - Họ - Chi họ)

    Người Êđê xưng hô : Khi vợ chồng có con thì gọi theo tên con . Tục này có ở nhiều dân tộc , kể cả người Kinh , ví dụ Ma Thuột có nghĩa là Bố thằng Thuột. Chính về thế mới có tên " Buôn Ma Thuột ) tức là làng bố thằng Thuột , nên nay có thành phố Buôn Ma Thuột . Còn nếu gọi Ban mê Thuột là gọi theo tiếng Lào có nghĩa là mẹ thằng Thuột.
    Như vậy dùng tên con để gọi bố mẹ . Thật là độc đáo bản sắc văn hoá Việt nam ./.

    2 - DÂN TỘC CHĂM
    Dân tộc Chăm có trên 132 nghìn người. Sống ở Ninh Thuận ( 50%), Bình Thuận, An Giang, Đồng Nai , Sài Gòn, . Người Chăm là cư dân bản địa lâu đời.
    Đồng bào trồng lúa nước thâm canh có trình độ cao. Các nghề thủ công như đồ gốm , dệt thổ cẩm rất nổi tiếng.

    Người Chăm theo chế độ mẫu hệ . Mỗi làng có từ 1000 đến 8000 người.
    Văn hoá nghệ thuật rất phong phú với các sử thi, lễ hội, mua hát , ca nhạc... Tháp Chăm là công trình thờ cúng đặc sắc của người Chăm.

    Cũng như địa danh làng Palei Chăm , tên người của dân tộc Chăm thường có hai (2) tên : tên khai sinh theo hộ khẩu tương tự như người Kinh và tân dân tộc .

    Các họ Chăm : Bá, Bạch , Báo, Bố, Chế, Dương, Đàng, Đạo, Đạt ,Đổng, Fatimah, Hàm , Hán, Hứa, Kiêu, La, Lâm,Lộ, Lu, Ma, Mohâmch, Miêu, Nại , Não, Nguyễn, Ông (ôn), Phú, Qua, Quảng Đại, Samách, Tài , Từ, Thanh, Thập, Thị (nữ), Thiên Sanh, Thiết, Thổ, Trà , Trương, Trượng , Văn.

    Ví dụ Tên thường goi là Phú Trạm (tên dân tộc là Inrasa), Chế Bồng Nga (Ceibingu), Chế Mân (SimhavarmanIII), Phạm Phật (Bhadravarman).
    . Nam: Ka Sô Liêng (Họ - Lót - Tên)
    . Nữ : Sô Mơ Đinh .

    Theo nhà thơ Inrasara thì : Họ ngày xưa của các vua Chăm Pa gồm có :
    . Inđra/Indravarzman
    . Jaya/Jờyinhavarma
    . Cri/Cri Satyavirman
    . Maha/MahaVijaya
    . Rudra/Rudrravarman...

    Ngày nay các họ này vẫn còn được một số người sử dụng :
    . Inra/Patra (là biến thái của inđra)
    . JayaMrang
    . JayaPanrang
    . Inrasara (Inra là sấm , Sara là muối)
    . Puđradang

    Các họ này được phiên âm ra tiếng hán là Chế (Cri) như Chế Mân , Chế Củ, Chế Bồng Nga, Chế Linh , Chế Lan Viên...
    . Họ Ong (hay Ông) như: Ông ích Khiêm,Ông Văn Tùng ...
    . Họ Ma có lẽ phiên âm từ chữ Maha.
    . Họ Trà (có lẽ từ Jaya)

    Bốn họ Ông, Ma , Trà, Chế xưa kia là họ Vua.

    Họ người Chăm bình dân : ở người Chăm thường thì cứ Ja (Nam) hay M (nữ) được đặt trước tên để phân biệt giới tính, nó như Văn nam Thị nữ của người Kinh , thời xa coi đó là họ ?

    Gần đây có khuynh hướng đặt tên cho mình như thế , ví dụ Lờy "nó" làm bút danh như Jantâhrei (nhà nghiên cứu Thiên Sanh Cảnh), Talau (Nhà thơ Trương Văn Lỗu) được coi là đẹp và sang.

    Họ người Chăm theo dòng tộc: Như trên đã trình bày , trước đây người Chăm không có họ như kiểu người Kinh như Trần , Nguyễn , Phạm , Lê..., mà người Chăm chỉ có chữ Ja hoặc M (Mng) đặt trước tên mình để phân biệt nam nữ, ví dụ Ja Phôi, Ja Ka (Nam) M Ehava, Mng Thang Ôn (nữ) , giống như Văn Thị của người Kinh .

    Người Chăm chỉ có hoàng tộc mới có họ : Ôn, Trà , Ma, Chế . Quan lại thường đựoc gọi bằng chức như Po Klăn Thu (ngài Trấn thủ) , Pô Phok Thăk (ngài phó trấn thủ tên Thak) hoặc như Đwai Kabait (ông đội Kabait).

    Cũng có dòng họ đặt theo tên vua : họ Po Rome, họ Po Gihlw hoặc đặt theo tên lòai cây trụ trong kut chính , họ Ga dak, họ Mul Pui , nhưng không dùng họ này đặt tên riêng.

    Họ và tên còn đặt theo tôn giáo ( Islam) :Thường do sự tiên đoán tương lai của đứa con mà người cha chọn 1 trong 25 vị thánh đặt tên :
    . Con trai là Ali, Ibrohim, Mousa, Ysa...
    . Con gái là : Fatima,Khođijah,Maryam...

    Cách đặt tên theo giấy khai sinh :

    Vào đời vua Minh Mạng ( 1820-1840) , năm thứ 14 , nhà vua ban cho người Chăm các họ theo phong tục Việt Nam :
    . Bá
    . Đàng
    . Hứa
    . Lưu
    . Lựu
    . Hán
    . Lộ
    . Mà
    . Châu
    . Nguỵ
    . Tử
    . Tạ
    . Thiên
    . Uc
    . Vạn
    . Lâm
    . Hải
    . Báo
    . Cây
    . Dương
    . Quảng
    . Qua
    . Tưởng
    . L...
    Số người có công với triều đình được mang họ Nguyễn .

    Như vậy có sự giao lưu văn hoá Kinh - Chăm , nhưng nét đặc sắc của văn hoá Chăm là Họ tộc Chăm là theo Mẫu Hệ, ví dụ Nguyễn Văn Tỷ (khai sinh) , họ mẹ là Po Đăm hoặc Phú Trạm (khai sinh) , họ mẹ là Inrasara ./.

    3 - DÂN TỘC THÁI
    Dân tộc Thái có trên 1,32 triệu người, cư trú ở các tỉnh Tây Bắc, Hoà Bình, Thanh Hoá và Nghệ An.

    Người Thái có nhiều họ khác nhau. Họ Lò không ăn thịt chim Táng Lò ( vật tổ). Họ Quang kiêng ăn thịt hổ...
    Đồng bào Thái thờ cúng tổ tiên , trời , đất, cúng bản Mường , không theo tôn giáo nào.

    Văn hoá nghệ thuật Thái rất độc đáo rạng rỡ với nghệ thuật " Múa Xoè", " Múa Nón" , Khèn Thái, Pí Pặp, Quăm Khắp (Hát).

    Các tác phẩm truyện thơ nổi tiếng như "Sống Trụ Son Sao " (Tiếng dặn người yêu - như Truyện Kiều) mà Nguyễn Khôi đã chuyển dịch rất thành công sang thơ Song thất lục bát , tái bản nhiều lần ), Khun Lua - Nàng ủa , Em bé - Nàng Hổ ( như Tấm Cám của người Kinh .

    Lối hát giao duyên " Hạn Khuống" ( như Quan họ Bắc Ninh ) , rất hấp dẫn.

    Nhìn chung người Thái là dân tộc phát triển trồng lúa nước , dệt thổ cẩm, làm được súng săn...

    Thường được goi là " người Kinh " ở miền Núi. Có rất nhiều nhà hoạt động chính trị , tướng tá , văn nghệ sỹ khá nổi tiếng.

    Người Thái có các họ : Bạc , Bế, Bua, Bun, Cà, cầm, Chẩu , Chiêu, Đèo , Hoàng, Khằm , Leo, Lỡo, Lềm, Lý, Lò, Lô, La, Lộc , Lự, Lường, Mang, Mè, Nam, Nông , Ngần , Ngu , Nho, Nhọt, Panh, Pha, Phia, Quàng, Sầm, Tụ, Tày, Tao, Tạo, Tòng, Vang, Vì, , Sa, Xin, .

    12 họ gốc là Lò, Lường, Quàng, Tòng, Cà, Lỡo, Mè, Lù, Lềm, Ngần, Nông.

    Người Thái có một số dòng họ quý tộc ( thường là các họ lớn ) tuỳ theo từng nơi đó là Cầm, Bạc, Xa, Đèo,Hà, Sầm, Lò...

    Các tên khác của một số họ :

    Họ Lò còn gọi là Lô, La, sau còn đổi là Cầm, Bạc, Điêu (Đèo), Tao (Đào), Hoàng , Lò Cầm (Lò Vàng) , Lò Luông (Lò Lớn).
    Họ Lường còn gọi là họ Lương
    Họ Quàng còn gọi là họ Hoàng, Vàng.
    Cà còn gọi là Sa , Hà , Mào .
    Vi còn gọi là Vi, Sa.
    Lêm còn gọi là Lâm , Lim.

    Ngành Thái đen còn có các họ Cầm , Bạc thường hay giữ các chức vị Chảu Mường .

    Ngành Thái trắng thường là các họ Đèo Lò Làm Chảu Mường
    Các tên thường gặp , ví dụ như :
    Lò Văn Muôn (vui)
    Lò Văn ứt (đói)
    Hoàng Nó (vua măng).

    Xưng hô hàng ngày của người Thái thường không gọi tên tục của nhau Thưòng là hai người " Cu-mưng ( như ủa- nỉ của Tàu, Toa- moa của Pháp , hiểu đơn giản như Tao-Mày - tôi- anh (chị).

    Thường gọi " dựa " con : Đàn ông là ải nọ... , ải kia... , người tôn trọng nhất gọi là "ải ộ", anh là "ải luông", bác là "ải lung" rồi " ải thẩu"; đàn bà là Êm (ếm) nọ ..., Êm kia , già nhất là Êm thẩu.

    Các vị chức sắc xưa thì gọi là Tạo nọ , Tạo kia hay Phìa nọ , Phìa kia ( con cháu những người này cũng được tôn trọng gọi là Tạo con..., Nàng... già là bà Nàng...)

    Sau năm 1945 bà con dân tộc được đổi tên mới , đặt tên không theo truyền thống mà phù hợp với đời sống văn minh hiện đại.Ví dụ nhà văn nhà thơ lấy bút danh như Tòng ín là Ban Pún (Hoa ban nở).

    Dân tộc Thái có Huyền thoại về dòng Họ : Sau nạn hồng thuỷ , chỉ còn sống sót một cặp vợ chồng. Người vợ có một thỏi đồng liền đem ra nấu và đúc thành dụng cụ. Quá trình đúc đồng được chia làm mấy giai đoạn như : lúc đầu làm đồng nguyên , sau nấu gọi là lô, muốn tăng sức nóng thì phải quạt , rồi đảo quấy đều , sau đó thành nước loãng , đem luyện lại , tô luyện thành công cụ rắn chắc .

    Vì vậy khi sinh con , họ đặt cho con đầu lòng mang họ Tông (đồng), con thứ hai là Ló nay gọi là Lò (lô), con thứ ba họ Ví ( quạt) , con thứ tư họ Quá( quàng) , con thứ năm họ Đèo( đồng thành nước), con thứ sáu họ Liếng ( đã luyện ) nay gọi chệch là Lường , con thứ bày họ Cả ( tôi luyên rắn thành công cụ ) , nay gọi là Cà.

    Quá trình phân hoá giàu nghèo nên các họ trên đều có ngày giỗ riêng .

    Đến nay tên đệm Văn cho Nam và Thị cho Nữ khá phổ biến như người Kinh.

    Theo nghiên cứu của chúng tôi thì nét đắc sắc văn hoá dùng họ và đặt tên có thể thấy ở Thanh Hoá, Nghệ An và Lai Châu .

    Người Thái Trắng ở Lai Châu rất chú trọng lễ đặt tên cho con. Đồng bào cho rằng: Trẻ con mới sinh do vía yếu , không muốn người lạ lên nhà người ta gài vào đầu cầu thang một cành lá xanh và giắt tấm phên đan mắt cáo (Ta Leo). Đến ngày trẻ đầy tháng (Hết Hoóng) làm lễ cúng đầy tháng và cũng là lúc đặt tên cho trẻ . Cách đặt tên không trùng với tên gọi ông bà họ hàng nội ngoại là được.

    Ngườì Thái Nghệ an do Lê Thái Tổ cho di từ Thuận Châu vào Miền Tây Nghệ An.

    Người Thái ở Thanh Hoá có câu tục ngữ :" Người có họ , cây có vườn (con mi họ, co mi xuân). Người Thái gọi là " Chao " có nghĩa là nòi giống.

    Tại Tây Bắc họ Lường làm thày mo , họ Lò làm Tạo , nhưng ở Thanh Hoá thì họ Hà làm Tạo.

    Người Thái theo phụ quyền (huyết thống cha), ở Việt nam người Thái mang cả tên họ gốc và tên phiên âm sang tiếng Việt , ví dụ Chao Lộc là họ Lục. Đó cũng là nét văn hoá Thái trong cộng đồng 54 dân tộc Việt nam ./.
    4 - DÂN TỘC MƯỜNG
    Dân tôc Mường Dân tôc Mường có trên 1,1 triệu người, chiếm hơn 1,5 % dân số Việt Nam

    Ngoài ra có các tên khác gọi : Mol, Mual, Mọi, Mọi bi, Au tá,. Tên Mường mới xuất hiện khoảng hơn một thế kỷ nay, để chỉ cộng đồng dân có nét tương đồng với người Kinh (Việt) sinh sống ở các bản Mường Hoà Bình,Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Sơn La,Thanh Hoá..."Mường" là một loại tổ chức hành chính cơ sở ở vùng núi , trở thành tên gọi của tộc người .

    Xét về nguồn gốc lịch sử , người Mường là người Việt cổ ( bản địa) từ 3000 năm trở về trước, từ sau thế kỷ 10 có sự cách biệt của nhóm người Việt ở đồng bằng với người ở miền núi nên dần dần có sự khác biệt thành người Kinh - người Mường.

    Về kinh tế , đồng bào Mường trồng lúa nước là chính. Trên nương dẫy có ngô, khoai, sắn , đậu , đỗ. Một số nơi trồng tre , luồng, trẩu , gai, sở , đay, bông, quế, mía. Về chăn nuôi có trâu, bò,ngựa, lợn ,gà, ngựa, lợn, gà, vịt. Đồng bào có các nghề thủ công : dệt,đan lát, mộc... Ngoài ra còn thu hái các lâm thổ sản, săn bắt các lọai thú rừng để cải thiện bữa ăn hàng ngày .
    .
    Xã hội Mường Hoà Bình trước năm 1945 là một xã hội có đẳng cấp , trong đó mỗi con người được " chính danh định phận ". Quý tộc gọi là Lang , bình dân gọi là Jan ( dan ) . Trong một mương ( Mường) gồm nhiều xóm , quý tộc thống trị đều là thành viên một dòng họ. Ví dụ dòng họ Bạch Công thống trị ở Mường Rếch ( 12 xóm ) . Con trai trưởng thống trị toàn bộ thung lũng 12 xóm gọi là Lang Cun ( cun ) . Lang Cun Mường Rếch là Cun Đếch ( Chiềng Rếch hay Cun Rếch là Cun Đếch ) Chiềng Rếch , tức là Chiềng của Mường Rếch). Các chi thứ chia nhau thống trị các xóm khác ở phạm vi ngoài Chiềng ( ý là trung tâm) . Đứng đầu xóm Đúp là con trai trưởng của một chi thứ của họ Bạch Công , đó là Lang Tạo ( Lang Đạo ) , nói rõ là Tao Tuúp ( Đạo Đúp , tức Lang Đạo xóm Đúp).

    Nội bộ bình dân phân hoá thành từng lớp Âu. Người bình dân được cất nhắc vào bộ máy thống trị của Cun ở Chiềng hay Đạo ở xóm chức Âu, cao nhất là Âu Eng ( Âu anh) được ăn phần ruộng tốt nhất , chức nhỏ là Âu ún ( Âu em ) là tay chân cho Lang và các Âu anh sai phái.

    Dưới Âu đến nóc dân thường được ăn ruộng công gọi là nhà nưóc , cấp thấp nhất là Noóc K,Loi (Nóc Trọi) sống bằng nước rẫy , đó là Tứa Roong , có ý khinh miệt..

    Sau năm 1945 mọi người Mường đều được bình đẳng..

    Gia đình Mường tổ chức theo mô hình gia đình nhỏ phụ quyền . Con trai là người được hưởng quyền thừa kế tài sản..
    .
    Dân tộc Mường theo hôn nhân một vợ một chồng bền vững , cư trú bên nhà chồng. Tục cưới xin giống người Kinh (chạm ngõ, ăn hỏi , xin cưới và đón dâu)..

    Khi trong nhà có người sinh đẻ , đồng bào rào cầu thang chính bằng một phên nứa. Khi trẻ lớn một tuổi mới đặt tên..
    Khi có người chết , tang lễ được theo nghi lễ nghiêm ngặt..

    Tiếng Mường là một ngôn ngữ thống nhất , là hình ảnh của tiếng Việt ở giai đoạn tiếng Việt- Mường chung với đăc điểm chính là lưu giữ lại quá trình vô thanh hoá các phụ âm đầu. Ví dụ gà (Việt)/ ka (Mường), đi/ti, ba/pa....

    Dân tộc Mường chưa có chữ viết riêng. Mo "đẻ đất đẻ nước" là tài liệu văn học dân gian có giá trị nhất trong kho tàng văn học dân gian dân tộc Mường..

    Dàn cồng chiêng là nhạc cụ dân tộc đặc sắc nhất của dân tộc Mường. ở Phú Thọ còn dùng ống nứa gõ vào những tấm gỗ trên sàn nhà tạo thành những âm thanh để thưởng thức gọi là Đâm Đuổng..

    Lễ sinh con; Ngày đứa trẻ ra đời cả gia đình mở tiệc ăn mừng , mời Mo đến cúng cho hai mẹ con khoẻ, bé ăn no chóng lớn . Cả gia đình vui như hội . Thời gian kiêng cữ từ 7-12 ngày . Con trai goi là Thóc giống (lọ me), con gái gọi là Rau cỏ (cách tắc) . Khi ở cữ , phụ sản phải qua tục Sưởi lửa . Bất kể mùa nào cũng phải ngồi bên bếp lửa , với ý là lưu thông khí huyết , ba ngày sau mới được lau tắm thân thể. Sau một tháng mới được ăn thịt gà (chỉ ăn đùi bóc sạch da) nướng với rau bệ.

    Ngay sau khi sinh đặt tên tạm , chờ đến đầy tuổi tôi (12 tháng) mới làm lễ đặt tên chính thức. Để cầu mong cho trẻ hay ăn chóng lớn người ta còn làm lễ cúng Mụ . Lễ vật gồm xôi, rượu , cá chép . Mâm cỗ đặt trên cửa sổ nhà sàn. Gia chủ cầu khấn mong cho đứa trẻ "thốt như cách, mách như đác" nghĩa là :" Tốt như ót , mát như nước".

    Khi đứa trể lọt lòng mẹ , người Mường ở Vĩnh Phúc đặt đứa trẻ trên cái Cúm (mẹt to) có lót lá chuối rừng đã được nướng mềm . Người mẹ nằm ngay bên cạnh con.Nếu là con gái thì lấy cái hông nồi xôi bằng gỗ khoét rỗng (chõ) đập nhẹ xuống sàn , nếu là con trai thì lấy cái chài cũ , đập nhẹ xuống sàn , miệng nói: " hỡi con trai dậy mà ti chài ti lứa. Hỡi con tứa dậy mà tháo thơ tháo thằm ", đại ý là : "Hỡi con trai dậy mà đi kéo chài, đánh lưới. Hỡi con gái dậy mà kéo tơ, kéo tằm". Gọi và đập như vậy ba lần chờ đứa bé khóc to mới bế lên quấn tã lót. Ba tháng sau mới làm lễ Vía cho bé.

    Người Mường có họ tên như người Kinh . Do xưa kia, hình thái tổ chức xã hội đặc thù của người Mường là chế độ Lang đạo, các dòng họ Lang đạo (Đinh , Quách, Bạch, Hà) chia nhau cai quản các vùng. Đứng đầu mỗi Mường có Lang Cun , dưới Lang Cun có các Lang Xóm hoặc Đạo Xóm cai quản một xóm. Ngoài bốn họ trên còn có một số họ tiêu biểu như Bùi , Hoàng , Lê, Phạm, Trịnh, Xa, họ Phùng ...

    Ví dụ như
    Đinh Công Vợi, Quách Tất Công,
    Bùi Thị Phệu, Phùng Thị Lợi ,
    Hà Công Rộng , Bạch Thành Phong , Bùi Văn Kín./.

    5 - DÂN TỘC MÔNG
    Dân tộc Mông có trên 784 nghìn người. cư- trú tập trung ở các tỉnh Hà Giang , Lào Cai, Tuyên Quang, Yên Bái,Lai Châu , Sơn La, Cao Bằng , Nghệ An...

    Còn có tên là Mông roi ( Mèo Trắng ) , Mông Lềnh ( Mèo hoa), Mông roi ( Mèo đỏ), Mông đú( Mèo đen) , Mông súa ( Mông mán). Mông có nghĩa Người.

    Dân tộc Mông có bản sắc văn hoá rất độc đáo. Gốc gác ở vùng Quý Châu Trung Quốc , gọi là Miêu Tộc (miêu gồm bộ thảo và chữ điền nghĩa là mạ , là mầm , là dáng diệu xinh đẹp , một tộc ngư-ời biết trồng lúa từ xa x-a). Do bị phong kiến Hán tộc tàn sát nên di cư- xuống Việt nam... , tên đồng bào tự gọi nhau là H'Mông, có nghiã là Người.

    Từ trước đến nay , các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc vẫn kiên trì coi ngôn ngữ nhóm H'Mông - Dao thuộc ngôn ngữ Hán Tạng.

    Người H'Mông , có người nghiên cứu tìm ra có nhiều cái nhất:

    Ngôn ngữ có nhiều thanh nhất 8 thanh chia thành nhiều âm vực ; Vốn từ láy dồi dào .

    Hệ thống âm đầu rất phong phú có từ 51-57 phụ âm đầu ; Âm nhạc H'Mông có tiếng Sáo , Khèn Mèo, đàn môi nổi bật gai điệu ở dạng gãy khúc "nhâp nhô" như đỉnh non cao mà họ cư trú .

    Ngoài ra còn có Gạo Mèo, Rượu Mèo, Táo Mèo là ngon nhất; Lợn Mèo , bò Mèo là to nhất ; Cày Mèo, cối xay Mèo bằng đá độc đáo bền nhất, ruộng bậc thang với hệ thống tới tiêu ở lưng chừng núi tuyệt vời nhất; Váy Mèo, áo Mèo sặc sỡ đẹp nhất ; Múa Mèo , hát Mèo vào loại hay nhất; Súng Mèo tự tạo , dao Mèo tốt sắc nhát; Đi bộ leo dốc giỏi nhất; Dũng cảm , vượt gian khó , hiên ngang nhất .

    Tại Việt nam cùng thời với Hoàng Hoa Thám đánh Pháp người H'Mông cũng có Giàng Chỉn Hùng ( Bắc Hà ) Thảo Nủ Đa ( Mù Cang Chải ) Giàng Tả Chay ( Tây Bắc) . Sau nay có Vừ A Dính( Tuần Giáo ) - Kim Đồng ( Cao Bằng ). Nhân vật lịch sử Vua Mèo Vàng Chí Sình ( Bắc Hà ) sau cũng theo Việt Minh đánh Pháp. Thời nay có nhiều ng-ời H'Mông học tới Cử nhân , Tiến sỹ , ví dụ Tiến sỹ Thào Xuân Sùng , bí thư tỉnh uỷ Sơn la.

    Về văn học có "Tiếng hát làm dâu" "Tiếng hát mồ côi" nói lên thân phận con người thật là thống thiết , dù ai "cứng lòng" mà đọc cũng phải rưng rưng nước mắt! . "Dân ca Mèo'', truyện cổ tích Mèo cũng rất phong phú. Quan hệ dòng tộc rất đặc sắc , mỗi dòng họ cư trú quây quần thành từng cụm , có một trưởng họ đảm nhiệm công việc chung "đi đâu ở đâu" có họ hàng , sống chết không rời nhau. Có tục "Háy Pú" , cướp vợ rất đặc sắc. Đồng bào có chữ viết riêng.
    Lễ cúng khi sinh đẻ: Đồng bào quan niệm rằng: Con người ta có hai phần (thể xác và linh hồn) , họ không quan tâm nhiều đến phần thể xác. Họ cho rằng con người sinh ra trên cõi đời chỉ cần nhìn thấy ba lần ánh mặt trời cũng là một kiếp người.

    Một con người có ba linh hồn :

    Hồn thứ nhất ở đỉnh đầu, do đó kiêng xoa đầu trẻ em vì hồn nó yếu , xoa đầu hồn sẽ bỏ đi , vì thế ai xoa thì phải làm lễ gọi hồn về.

    Hồn thứ hai ở vùng ngực , hồn này ít bỏ đi lang thang , nhưng khi đã bỏ đi thì bệnh sẽ nặng

    Hồn thứ ba ở rốn, hồn này cai quản thân xác và nội tạng , hồn này bỏ đi là đau nội tạng , đau bụng (hồn này ở phụ nữ yếu hơn nam giới , nên phụ nữ hay đau bụng hơn , hồn bỏ đi không về sẽ chết).

    Khi chết hồn thứ nhất bay lên tầng cao nhất cùng tổ tiên trên trời (cõi tiên) .

    Hồn thứ hai bay lên chỗ Ngọc Hoàng chờ đầu thai vào kiếp khác (ai xấu sẽ đầu thai làm con vật); Hồn thứ ba gác phần mộ , lởn vởn nơi tầng thấp của Ngưu ma vương , thường bay về quấy nhiễu. Vì thế người H'Mông rất quan tâm đến việc thờ cúng gắn với chu kỳ đời người.

    Khi bà mẹ sắp sinh em bé thì nhà có lễ cúng "đề ca súa" , cầu cho mẹ tròn con vuông.

    Đồng bào cho rằng : Khi trẻ sinh ra chưa có linh hồn ngay, phải sau 3 ngày mới tổ chức lễ gọi hồn (húp hi) - đây là lễ lớn , thông báo cho sự ra đời của một thành viên trong gia đình . Đây cũng là lúc đặt tên cho trẻ. Tên trẻ không được trùng với tên ông bà , tổ tiên , họ hàng . Cuối lễ , thầy cúng xem chân gà "bói" tương lai cho trẻ.

    Về họ và tên , những người có chung một họ như Giàng , Vừ , Thào , Lầu , Lý... đều coi nhau như anh em , dẫu không chung một tổ.

    Người H'Mông ở Lào Cai , Thanh Hoá và Nghệ An có nhiều nét văn hoá đặc sắc. Ng-ười H'Mông ở Lào Cai có hơn 30 họ, các họ lấy tên con vật như Sùng (gấu), Hầu (khỉ) ,Lồ (lừa), Mã (ngựa) Giàng (dê) và Lùng (rồng). Có họ lấy màu sắc đặt họ ví dụ Hoàng (màu vàng), Lù (màu xanh) Hùng (màu đỏ). Có họ lấy tên cây , ví dụ như Lý (mận) Thào (đào). Họ còn lấy tên đồ vật , ví dụ như Cư (trống), Thèn (thùng) .

    Đồng bào đặt tên nhiều lần :

    Khi bé đầy tuổi , có lễ mừng tuổi , Lễ đội tên đệm của bố cùng lúc với lễ mừng con đầu lòng 1 tuổi. Khi ấy con trai tặng nỏ , súng , dao , cháu gái tặng cuốn chỉ thêu, tấm vải . ước nguyện trai tài gái đảm.

    Lễ đặt tên lần thứ hai "Tì bê lầu" , thịt một con lợn tặng bố mẹ vợ nửa , cầu khấn những điều tốt lành , buộc chỉ cổ tay , đặt tên đệm mới cho con rể. Bố mẹ vợ tặng vật kỷ niệm cho con rể thường là đồng bạc trắng , cái địu con .

    Có trường hợp người đàn ông có đến 3-4 tên , khi đau ốm hoặc rủi ro , tai nạn thì lại làm lễ đặt tên lại .

    Đồng bào quan niệm "thùng sếnh, thùng đang" tức là cùng họ cùng ma vì làm ăn làm uống ta có thể học người khác , nhưng làm ma thì không thể theo người ta đựơc.

    Lễ ma có 4 lễ :
    . Lễ ma tươi
    . Cúng ma bò
    . Cúng ma lợn
    . Cúng ma cửa
    Đúng là , cách đặt 3-4 tên của người H'Mông mang bản sắc văn hoá thật độc đáo ./.

    6 - DÂN TỘC KHƠ ME
    Dân tộc Khơ Me có trên 1 triệu người , sống tập trung ở các tỉnh Sóc Trang , Vĩnh Long, Trà Vinh , Cần Thơ, Kiên Giang , An Giang .

    Còn có các tên khác Khơ Me Krom, Cur, Cul , Thổ, Việt gốc Miên .

    Tên Khơ Me bắt nguồn từ tiếng Phạn ( Ấn Độ ) Khêmara có nghĩa là "An Vui Hanh Phúc."

    Đây là một cư dân sống lâu đời ở Đồng bằng Sông Cửu Long, sống xen kẽ với người Kinh và người Hoa.

    Đồng bào biết thâm canh lúa nước từ lâu đời, biết làm thuỷ lợi và lợi dụng thuỷ triều để thay chua rửa mặn, xổ phèn cải tạo đất.Có địa phương trồng nhiều dưa hấu . Chăn nuôi gia súc , gia cầm , làm các nghề thủ công (dệt , gốm...) và làm đường Thốt nốt.

    Dân tộc Khơ Me sống quần tụ thành các phum , sóc( như thôn ấp của người Kinh , gồm từ 17-70 nóc nhà. Trên các phum sóc không có đình mà có chùa , gọi là chùa Khơ Me . Các chùa này có cấu trúc khá giống nhau tuy quy mô khác nhau . Chùa là nơi thờ Phật và là nơi hành lễ của dân làng.

    Về trang phục : đàn ông đóng khố sampôt. đàn bà mặc váy xà rồng , dài chấm mắt cá chân , màu gụ, có nhiều hoa văn đẹp . Ngày xưa phụ nữ không mặc áo mà dùng một tấm vải vắt chéo qua vai để che ngực , có thói quen quấn khăn Khrâm lên đầu . Nhà sư cọc trọc đầu , râu và lông mày. Khoác áo cà sa , mang khố vàng màu nghệ và ô trắng hay vàng.

    Đồng bào Khơ Me có ba hình thức tôn giáo , theo tín ngưỡng dân gian , đạo Balamon, Phật giáo tiểu thừa . Trong mỗi chùa có nhiều sãi ( gọi là các ông Lục ) và do sãi cả đứng đầu . Con trai Khơ Me trước khi trưởng thành thuờng đến ở chùa để tu học, trau dồi đức hạnh và kiến thức. Nhà chùa thường dạy kinh nghiệm sản xuất , dạy chữ. Hiện nay có trên 400 chùa Khơ Me.

    Người Khơ Me ghi chép lại một nền văn học rất phong phú của mình trên lá buông gọi là Xatra . Văn học dân gian truyền miệng cũng vô cùng phong phú . Nghệ thuật sân khấu gồm nhiều loại Dù kê, Rô băm . Các điệu múa nổi tiếng : Lăm vông, Múa kiếm ( Răm khách ), Lăm Lêu...

    Các ngày lễ lớn là Choi Chnăm Thơ Mây( Mừng năm Mới ) , Lễ Phật đản , lễ Đôn ta ( xá tội vong nhân ) , Oóc Bom boóc ( cúng trăng ).

    Các họ của người Khơ Me :
    Bàn , Binh , Chau , Chiêm , Danh , Dơng, Đào, Điêu, Đoàn , Đỗ, Hiùnh, Hứa , Kỷ, Liêu, Lộc , Lục, Lu , Mai , Neang, Nuth, Ngô, Nguyễn, Panth, Pem, Pham , Sơn, Tăng, Tô, Từ , Tng, Thạch, Thị , Thuấn, Trà , Trần, U, Uônth, Xanh, Xath,Xum...

    Các họ tên tiêu biểu của người Khơ Me Danh , Sơn, Kim, Thạch , Châu , Lâm , ví dụ :
    Danh út, Ngọc Anh ( Nam )
    Lâm Phú Thạch Thị ( nữ).

    Phụ nữ thường phân biệt bằng chữ Thị hoặc Nêang . Người Khơ Me có họ từ thời Nguyễn , vua Minh Mạng , để kiểm kê hộ khẩu dân số. Trước đó người Khơ Me không có họ.

    Nét văn hoá đặc sắc trong văn hoá dùng họ và đặt tên của ngời Khơ Me chính là : Để phân biệt những người cùng tên và có quan hệ huyết thống thì người Khơ Me thường gọi kèm tên người cha ( phụ tử liên danh) , tên người cha thành họ của người con./.
    (Sưu tầm)

    Email tạm thời bấm vào đây THƠ-BÀI VIẾT-ÂM NHẠC