Hãy sống vui vẻ với những điều ta yêu thích,những điều ta muốn khám phá,những việc ta muốn làm trong khuôn khổ cho phép của thời gian!

Chủ Nhật, 2 tháng 9, 2012

Văn hóa người Việt Cổ

Chuyện chưa biết về người Việt cổ
Giadinh.net - Những tưởng hàng vạn năm trước, khi cuộc sống mang tư tưởng lạc hậu, cái đẹp không được chú ý, nhưng hóa ra, ông bà tổ tiên của chúng ta lại "sành điệu" và biết cách làm đẹp đến kinh ngạc. PGS Nguyễn Lân Cường kể.


PGS Nguyễn Lân Cường tại một khu khai quật.
PGS Nguyễn Lân Cường cười vồn vã: "Muốn tìm hiểu người Việt cổ hả? Cứ nhìn tôi thế nào thì hình dạng họ như thế". PGS Lân Cường cho biết, nhìn chung, chiều cao trung bình của người Việt cổ chỉ khoảng 1m45-1m50. Tuy nhiên, cũng có những mộ táng tìm được, bộ xương có chiều cao tới 1m62…

Các cụ nhà ta biết làm đẹp!

Có đợt đi đào được một khu mộ táng, các nhà khảo cổ tìm thấy một chiếc chum to trong mộ. PGS Lân Cường và các đồng nghiệp tranh luận gay gắt về việc có chôn người trong đó hay không? Ai cũng bảo không thể vừa một người trong lòng chum như thế.
Còn PGS Lân Cường lại nằng nặc bảo rằng: Vừa vặn một người. Và để chứng minh, ông tự mình ngồi cuộn tròn người lại trong chum một cách gọn gàng. Hóa ra, cái chum đó đúng là dùng để làm mộ táng thật. Và PGS Lân Cường đã không chỉ đùa khi nói ông là mẫu người chuẩn của người Việt cổ. "Thấp bé thế thôi nhưng các cụ nhà ta lại rất ăn chơi nhé. Có nhiều phong tục mà đến giờ con cháu chúng mình theo cũng không hết đâu".


Chum dùng làm mộ táng.
PGS Nguyễn Lân Cường mô phỏng lại tục táng mộ chum của người Việt cổ (ảnh do PGS Lân Cường cung cấp)


Vào năm 1997, Viện Khảo cổ và bảo tàng Quảng Ngãi phát hiện tại xóm Ốc, xã Lý Vĩnh, huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) có một mộ đất song táng kỳ lạ. Người đàn ông khoảng 50-60 tuổi được chôn cùng một người phụ nữ khoảng 20-25 tuổi với niên đại của văn hóa Sa Huỳnh (năm 1.000 trước Công nguyên).
Điều gây ngạc nhiên cho các nhà khảo cổ là trên bàn tay phải ở ngón tay giữa của người đàn ông có đeo một chiếc nhẫn bằng vỏ ốc.
Với PGS Lân Cường, trong suốt hơn 40 năm làm việc tại Viện Khảo cổ và nghiên cứu khoảng 800 bộ di cốt người cổ thì đây là hiện tượng lần đầu tiên gặp. Người đàn ông này cũng thiếu 2 cái răng cửa! Có người khi xem mộ táng này được trưng bày tại bảo tàng Quảng Ngãi có hỏi: "Người đàn ông chôn cùng kia là bố hay chồng cô gái?". PGS Lân Cường lắc đầu bảo, chỉ có cách làm ADN mới có thể biết rõ điều này.
Những tưởng hàng vạn năm trước, khi cuộc sống mang tư tưởng lạc hậu, cái đẹp không được chú ý, nhưng hóa ra, ông bà tổ tiên của chúng ta lại "sành điệu" và biết cách làm đẹp đến kinh ngạc. PGS Lân Cường kể, qua hàng nghìn ngôi mộ cổ đã khai quật đều thấy trong đó được chôn theo các hiện vật như lọ, chum, quần áo, bát, vòng xuyến… Đây cũng là thói quen của người sống dành cho người chết để khi họ sang thế giới bên kia còn cần những thứ này sử dụng. Tục này cũng giống như cuộc sống hiện đại của chúng ta bây giờ…
8h45 phút ngày 10/5/2006, trong khi dùng chiếc kim nhỏ cậy từng tí đất ở hốc mắt, PGS Lân Cường run lên khi phát hiện màu trắng vôi của thân ốc và hét toáng lên: "Thấy rồi, thấy rồi!". Lớp đất mỏng được bóc đi làm lộ dần 2 con ốc nằm gọn trong hốc mắt của người đàn bà. Loại ốc biển có tên khoa học là Cyprea arabica- các nhà khoa học Việt Nam gọi là ốc loa hay ốc lợn. Con ốc nằm ngửa trong hốc mắt phải dài 21,61mm, con ốc nằm ngửa trong mắt trái là 27,23mm rộng 16mm. Người xưa đã sử dụng loại ốc này làm đồ trang sức và thay cho tiền tệ, nên còn có tên là ốc tiền.

"Trong lúc khâm liệm, người ta đã đặt lên mỗi mắt một con ốc, để khi phần da thịt tiêu đi, con ốc sẽ tụt xuống hốc mắt như thay cho con mắt. Dựa vào vị trí của xương tay, xương sườn, chậu hông và các đốt bàn tay, bàn chân, chúng tôi cho rằng đây là di cốt chôn nguyên dạng chứ không phải cải táng.
Chưa bao giờ tôi gặp trường hợp như vậy. Đây là một phát hiện cực kỳ quan trọng không những về mặt cổ nhân học (vì đây là bộ xương phát hiện đầu tiên tại Tuyên Quang) mà còn về mặt tư duy. Khả năng những cư dân thuộc văn hoá Hoà Bình (cách đây khoảng hơn 1 vạn năm) suy nghĩ rằng, người phụ nữ Phia Vài này đang bước sang "một cuộc sống mới", bà ta cũng cần hai con mắt như những người đang sống khác. Lại cũng có thể con cháu bà cho rằng, đặt hai con ốc vào hốc mắt làm cho người quá cố đẹp hơn, sống hơn"- PGS Lân Cường phấn khởi tuyên bố.
Nhổ răng cửa cho…xinh



Cho đến nay, những di cốt người cổ thuộc các nền văn hóa sớm hơn như Hòa Bình, Bắc Sơn, Đa Bút, Quỳnh Văn (thời đại đá mới) hay muộn hơn như văn hóa Đông Sơn, Hạ Long, Sa Huỳnh, Óc Eo (thời đại kim khí) chưa phát hiện có tục lệ nhổ răng. Tục lệ này mới phát hiện thấy ở thời kỳ Phùng Nguyên.
Theo tài liệu ghi lại, những cư dân thời đại đá mới ở Trung Quốc cũng có tục này. Ở một vài nền văn hóa rất sớm, ở Bắc Phi tục nhổ răng để thể hiện nghi thức nào đó.
Tục nhổ răng không chỉ phát hiện ở châu Á, Australia mà còn ở nhiều đảo của Thái Bình Dương.
Cư dân văn hóa Phùng Nguyên (cách đây khoảng 4.000 năm) còn có tục nhổ răng từ khi là… thanh niên. Có khi họ nhổ cả 4 răng cửa dưới và 2 răng ở hai bên. Có những người "chơi trội" hơn, nhổ tất cả răng cửa gồm 8 cái. "Đây là quan niệm thế là đẹp, thế là thẩm mỹ. Sau khi chụp X-quang, chúng tôi không phát hiện ra mầm răng. Điều này chứng tỏ không phải bệnh tật mà là nhổ răng từ thời trưởng thành" - PGS Lân Cường chỉ vào bức hình hộp sọ không còn chân răng nói.

Tục nhổ răng cho xinh này chỉ thấy xuất hiện ở thời kỳ văn hóa Phùng Nguyên. Sau đó có phát hiện ra ở một số nơi có phong tục nhổ răng khi trưởng thành. Sau này, PGS Lân Cường nghiên cứu thêm mới thấy ở Nhật Bản, Trung Quốc cũng có phong tục này. Hay như ở di chỉ Mán Bạc có phát hiện cái răng mài vát của răng cửa. Đây cũng không phải là vết mòn của răng. Đây cũng là một phong tục của người Việt cổ xưa rất kỳ lạ và "chịu chơi".

Những tập tục như nhuộm răng thì có rất nhiều và kéo dài tới tận thời nay. Nhưng chưa thấy vùng nào người dân lại duy trì tục nhổ hết mảng răng cửa hay mài vẹt hai bên răng cửa cho đẹp như những người dân ở cư dân vùng này. Điều này cũng được PGS Lân Cường đánh dấu nhớ vào một cuốn sổ: Những điều kỳ lạ của người Việt cổ!
Người Việt cổ rất thời trang



Chiếc áo của người Việt cổ có khăn quàng cổ dài nhất lần đầu tiên được tìm thấy.
PGS Lân Cường cho biết, nhìn chung người Việt cổ thấp, chiều cao trung bình chỉ khỏang từ 1,4 - 1,5m nhưng có những ngôi mộ phát hiện được lại cho thấy chiều cao lại từ 1,6 - 1,67m. Như ngôi mộ tìm thấy ở vườn đào Nhật Tân (Hà Nội) năm 2005, chủ nhân chôn trong mộ là một người đàn ông cao 1,62m, gương mặt hình trái xoan khá thanh tú.
Độ tuổi được xác định khi mất khoảng 60-62, thi thể được bảo quản nguyên vẹn. Tóc người đàn ông này được để dài 95cm, buộc dây vải thành lọn phía sau, có nhiều sợi đốm bạc. Toàn bộ thi thể nguyên vẹn có màu da trắng ngà, mặt điểm vết rám đồi mồi.
Điều ngạc nhiên là toàn bộ lục phủ ngũ tạng co vón thành khối trong lồng bụng nhưng bộ phần sinh dục nam lại gần như nguyên vẹn. Ngôi mộ được mở ra có mùi thơm nồng tinh dầu hoàn đàn rủ bám cả vào quần áo, đồ dùng trong mộ. Cũng theo nhiều tài liệu, người xưa đã biết chế những tinh dầu như thế từ các loại cây rừng để dùng ướp xác cho thơm.



Chiếc găng tay đầu tiên của người Việt cổ có đủ 5 ngón


Chiếc áo của người Việt cổ tìm thấy còn lành lặn
"Cuộc sống của người Việt cổ cũng không đến nỗi khốn khó như nhiều người đã nghĩ. Họ chăm chút trang phục, đồ dùng cá nhân rất đẹp. Ví dụ như ngôi mộ này là một điển hình khi người sống trang trí cho người chết cẩn thận" - PGS Lân Cường giới thiệu một bức ảnh tư liệu và kể - "Chủ nhân của ngôi mộ này được mai táng trong tư thế nằm ngửa, đầu hướng về phía đông bắc. Toàn thân mặc nhiều lớp áo và hai chiếc quần, trên thân buộc các nút vải gọn ghẽ, có 7 nút. Ngoài cùng mặc 4 lớp áo lụa tơ tằm phủ suốt thân, áo màu nâu sẫm.
Tiếp theo là 5 lớp áo dài đơn có màu vàng nhạt, cũng bằng lụa tơ tằm. Bên trong là một chiếc áo bằng vải phin có màu xanh sẫm và 9 chiếc áo dài bằng gấm màu nâu nhạt, có thêm nhiều chiếc áo thêu hoa văn rất đẹp. Sát thân là bốn chiếc áo lót ngắn, mỏng, mịn màu vàng nhạt không thêu hoa văn. Phía dưới, chủ nhân được mặc hai lớp quần ngắn lửng, cạp quần viền lớp khá lớn kiểu lá toạ. Vải quần màu vàng nhạt mịn, chất liệu lụa tơ tằm. Hai tay đeo găng bằng gấm có đủ 5 ngón". "Đây cũng là điều lạ khi hàng ngàn mộ trước đó chỉ có thấy túi găng tay, chứ không mộ nào có đủ 5 ngón tay như thế này" - PGS Lân Cường nói.

PGS Lân Cường cho biết thêm, quanh thân mộ chèn nhiều cuộn vải trắng đục, sợi thô dệt ngang, kích thước các cuộn to nhỏ khác nhau. Ngang chân chèn 17 cuộn, khe tay chèn thêm 10 cuộn, khe giữa hai chân là một cuộn dài chạy dọc, hai bên là 21 cuộn nhỏ khác nhau. Trong mộ này còn tìm thấy một cái túi nhỏ đựng 20 chiếc răng nhuộm đen. Đó là một túi gấm nhỏ thêu kim tuyến rất cầu kỳ bằng nửa bàn tay. Miệng túi may gập xuống chứa dây vải để thít miệng túi lại và có 2 hàng rèm, mỗi hàng 4 cánh, xen kẽ chồng kên nhau như những cánh hoa".

"Đấy, qua phần trang phục, quần áo của mộ này, chúng ta thấy họ cũng là những người rất cầu kỳ đấy chứ. Ai bảo người Việt cổ không biết cách chăm lo về hình thức" - PGS Lân Cường kết luận - "Cha ông tổ tiên mình thông minh và khéo tay lắm. Tôi chỉ ví dụ, văn hoa họa tiết của chiếc trống đồng Đông Sơn đó, họ tài tình vẽ những hình rồng bay như thật. Lúc nổi lúc chìm. Chụp rồi in họa tiết đó về làm lại một cái thử như thế, với công nghệ hiện đại như ngày nay còn phải mất hàng tháng, vậy mà còn chưa đẹp bằng tổ tiên mình làm".
Vân Lam

Một cách nhìn nguồn gốc tiếng Việt



Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương (9):

Tiếng Việt và tiếng Hẹ (Hakka)

Nguyên Nguyên

 

Trước khi tiếp tục quan sát và so sánh 2 thứ tiếng Hẹ và Việt, chúng ta thử nhắc lại những điểm chính dùng để minh chứng đẳng thức về chủng Lạc Việt (bộ Trãi):
 
Lạc Việt (Trãi) = Bách Bộc (thuộc Đông Yi) = HẸ (cổ)
 
Những điểm đó gồm có:
 
1.  Người Hẹ xuất xứ từ khu vực sông Hoàng Hà, chung quanh các sông Vị, Bộc và Lạc. Nhóm Lạc bộ Trãi thuộc rợ Đông Yi. Địa bàn chính của đám Đông Yi nằm ở khu vực tỉnh Sơn Đông ngày nay. Rợ Đông Yi được biết một thứ rợ có tục nhuộm răng, xâm mình.
2.  Hẹ tức Hakka là một thứ dân du mục khét tiếng của Trung quốc. Người Bách Bộc (bao gồm Bộc Việt) cũng vậy. Chữ 'Việt'   dùng trong 'Lạc Việt' (Bộ Trãi) được viết như miêu tả một nhóm người du mục sinh sống bằng nghề săn bắn, nay đây mai đó (bài 8).
3.  Bởi là dân du mục sinh sống bằng săn bắn, người Hẹ cổ trong nhóm Đông Yi không ngại ăn thịt Cầy, y hệt như dân Triều Tiên (Hàn) và Việt Nam. Thuở cổ thời, chính đám Lạc bộ Trãi đã cùng với người Hmong di tản sang Triều Tiên, và trở thành một trong ba đám rợ Tam Hàn. Món thịt Cầy mà người Lạc du mục thường dùng bữa cách đây trên dưới 3000 năm, thông thường có lẽ là con chó rừng tức Sói (bài 8).
4.  Tiếng Việt, nhất là những từ gốc Hán, thường có phát âm gần giống với tiếng Hán quan thoại hơn tiếng Quảng Đông. Chúng tôi đưa ra lý giải rằng một phần thứ tiếng Hán dùng ở cổ Việt mang ảnh hưởng nhiều của tiếng người Lạc bộ Trãi. Nhóm người này chính là tộc Yueh sống gần gũi với Hán tộc nhất trong hằng ngàn năm.
5.  Khi Trần Thủ Độ đưa Trần Cảnh lên soán ngôi nhà Lý, một số hoàng thân nhà Lý kéo nhau lên tàu căng buồm chạy về nơi chôn nhau cắt rốn của tổ tiên ở khu vực bán đảo Sơn Đông và Triều Tiên. Trùng hợp với địa bàn xưa của đám Đông Zi, bao gồm nhóm Lạc Việt (cổ).
6.  Một nhóm người dân tộc thuộc chủng Việt cổ tại khu vực Quảng Bình tự gọi 'người Nguồn'. 'Nguồn' theo thiển ý là âm đọc trại từ 'Ngìn' - một từ người Hẹ-cổ còn giữ đến ngày nay, mang nghĩa 'Người' (bài 7).
7.  Chúng ta cũng để ý đến cách dùng 'Trên Bộc dưới dâu' có vẻ phổ biến nhiều tại Việt Nam hơn ở bên Tàu. 'Trên Bộc dưới dâu' là câu nói người Hoa dùng để chế nhạo dân Lạc Việt thuộc nhóm Đông Yi đã khá phóng túng trong việc Sex với nhau, trên bãi sông Bộc và dưới ruộng dâu vào thời Đông Chu Liệt quốc. Dân Lạc Việt lúc đó sinh sống rất nhiều ở nước Trịnh và Vệ, thuộc khu vực Sơn Đông.
8.  Lạc Việt (bộ Trãi) chính là thị tộc Việt Thường lúc đó sống di động tại khu sông Vị, sông Lạc, sông Bộc, và Hoàng Hà. Rất gần với kinh đô Kiểu Kinh nhà Tây Châu. Vào khoảng năm 1100 TCN, thị tộc Việt Thường có cử 'đại sứ' mang một con chim Trĩ rất lớn, họ săn được, đến dâng biếu vua nhà Châu. Có lẽ từ việc này người Hoa mô tả tộc Lạc Việt bằng chữ Lạc viết kèm với bộ Trãi. Trong tiếng Hoa 'Trãi' và 'Trĩ' phát âm [zhi] như nhau. 'Trãi' mang hai nghĩa, hoặc con sâu không chân (sâu có chân, gọi 'Trùng'), hoặc con thú tưởng tượng giống con chồn, có sừng trên đầu.
9.  Người Hẹ có tóc dợn sóng, sóng mũi giữa đôi mắt cao hơn Hoa-tộc một chút. Người Hoa thuần túy tóc thẳng. Người Hoa Nam (Bách Việt) tóc cũng dợn sóng như người Hẹ.
10.  Theo kết quả đo lượng về chỉ số sọ [10] đăng trong quyển Mã Lai [1], chỉ số sọ người Việt bình quân vào khoảng 82.13, rất gần với chỉ số sọ người Thái (82.25), người Phi-luật Tân, Inđô-nêxia, Mã Lai (tổng trung bình: 82.19). Trong khi chỉ số sọ người Hoa là 78.27. Đặc biệt người Hoa tại tỉnh Sơn Đông - tức hậu duệ đám Lạc bộ Trãi và Đông Zi nói chung - theo đo đạc của Shirokogoroff là 81.70 gần bằng với chỉ số sọ người Việt hơn là Hoa tộc. Chỉ số sọ người Hàn cũng vậy: 82.88. Gần với Việt tộc, qua liên hệ Sơn Đông.
 
Trích dẫn kết quả chỉ số sọ trình bày trong quyển Mã Lai của Bình Nguyên Lộc cũng là  một dịp để nhấn mạnh vài điểm then chốt khác nhau giữa quyển Mã Lai và thuyết về nguồn gốc Âu Lạc giải mã trong suốt loạt bài này. Quan trọng nhất, loạt bài này có lẽ lần đầu tiên đã cố gắng phân biệt từng tộc khác nhau trong khối Bách Việt ở Hoa Nam và Bách Bộc tại Hoa Bắc. Đặc biệt quan tâm đến những tộc đã di tản đến xứ Việt cổ trong khoảng thiên niên kỷ đầu trước Công Nguyên. Quyển Mã Lai, ngược lại, tuy có nhiều đoạn phân biệt các chi chủng khác nhau, nhưng chung chung lại gộp họ lại với nhau thành một chủng Mã Lai. Việc làm này, nhất là qui về MỘT chủng mang tên Mã Lai rất dễ gây hiểu lầm. Mọi người dễ hiểu lầm người Mã Lai ngày nay là thủy tổ của khối Bách Việt. Quyển Mã Lai lại vướng phải một nhầm lẫn về đám người Hẹ. Trong khi tác giả đã cho biết tiếng Hẹ rất giống tiếng Việt, nhưng kết luận lại cho là Hẹ (Hakka) chính là đám di dân từ xứ Ba Thục cũ (Tứ Xuyên) và có bà con rất gần, hay hậu duệ, đám dân quân theo Thục Phán. Quyển Mã Lai, cũng không tránh khỏi thiếu sót thời đó ở chỗ không nhấn mạnh thuyết Mã Lai do những ai đầu tiên đề xướng. Đặc biệt, 'Mã Lai' vẫn không phát hiện Hùng Vương, nếu có, là một quốc tổ mang hai dòng máu. Lại cho rằng Hùng Vương chinh Nam phạt Bắc, có nhiều thuộc địa ở các khu lân cận [3]. Trái lại thuyết giải mã ở đây cho rằng có hai tộc chính tràn vào cổ Việt, trước sau, và cùng một lúc trong vòng 1000 năm trước, và ngay cả sau, Công Nguyên: Chủng Âu (Thái cổ) và Lạc (Việt cổ). Tại xứ Việt cổ họ gặp nhiều nhóm thuộc tộc Môn - Khmer, cũng như các nhóm Thái đã đến đó từ trước.
 
Những từ cơ bản của tiếng Việt ngày nay chỉ đầu mình, tứ chi, môi miệng, mắt mũi, bộ phận sinh dục, sex, ... lên đến hơn 60% tổng số từ cơ bản, theo kiểm chứng chúng tôi, cho thấy có gốc gác là tiếng của dân bản địa đến trước: Môn-Khmer [14]. Những từ gọi số đếm, đặc biệt từ 1 đến 10, cũng xuất phát từ tiếng Môn-Khmer. Người Âu và người Lạc từ phương Bắc đến sau, hợp chủng với nhau, tạo nên người Việt và tiếng Việt.
 
Trong bài này, chúng tôi sẽ tiếp tục minh giải đẳng thức 'Hẹ chính là người Lạc Việt cổ (bộ Trãi)' qua việc tiếp tục quan sát và so sánh một số điểm đặc trưng của hai thứ tiếng Hẹ và Việt.
 
Nhắc lại trong hai bài trước chúng ta đã xem qua 'chúng ta & chúng tôi' và cặp từ cùng gốc 'Gà Mái' (Việt) và 'Gai Ma' (Hẹ). 'Chúng ta-chúng tôi' cho thấy người Việt có gốc gác ở miệt cực Bắc của nước Tàu. Y hệt người Hẹ. Bởi chỉ ở khu vực này tiếng quan thoại mới phân biệt ra 'chúng ta' mang ý 'bao gồm' và 'chúng tôi' ngụ ý 'phân cách'. Theo ảnh hưởng của nhóm ngôn ngữ Altai. Ở 'gàmái' và 'gaima' chúng ta thấy một số điểm tương tự bao gồm cú pháp, văn phạm, âm vận, ý nghĩa, và đủ mọi thứ giữa tiếng Hẹ và Việt.
 
Bây giờ xin tiếp tục quan sát:
 
Chết = Mất
 
Một điểm đặc trưng khác đã cho thấy tiếng Hẹ giống y như tiếng Việt, và người Hẹ (Hakka) mang chủng Bách Yueh chứ không phải Hoa tộc. Đó là từ miêu tả sự chết, tiếng Việt còn gọi: 'Mất'.
 
'Chết' trong tiếng Việt, có vẻ chỉ gần gũi với âm của từ chỉ 'Chết' trong tiếng Mân (tức Phúc Kiến). Đó là [Chi]. Thật ra, tiếng Việt có rất nhiều từ để chỉ 'chết': Ra đi, thất lộc, từ trần, đi rồi, tử, xẩy (mạng), thiệt mạng, mất mạng, ngủm, thành người thiên cổ, táng mạng, vong mạng, quá vãng, về bên kia thế giới, trở về với Chúa, về cõi Phật, phiêu diêu nơi miền cực lạc, về chốn vĩnh hằng, hồn lìa khỏi xác, đi đời nhà ma, qua đời, tịch, quá cố, mãn phần, từ bỏ chốn trần tục, tắt thở, trút hơi thở cuối cùng, vĩnh biệt thế gian, tim đã ngừng đập, hẹn em kiếp sau, giã từ dương thế, v.v.
 
Nhưng chính yếu, và thường dùng hằng ngày có hai từ: 'chết' và 'mất'. Mất = Chết.
 
-  Tiếng Miến (Myanmar): chết = [thei-de], có vẻ giống 'thiệt' (mạng), hay 'thất' (lộc). 'Thất lạc' hay 'mất mát' họ gọi [Baud'te] rất gần với 'mất'. Âm [B] (baud'te) rất giống âm [M] (mất) bởi cả hai đều là âm môi-môi, các địa điểm phát âm giống nhau, nhưng một tắc-âm, [b], một tỵ-âm (âm dùng mũi), [m].
-  Tiếng Hải Nam, gọi 'chết' bằng [di] (= si (tử) quan thoại). [Di] có vẻ bà con gần với 'đi' tiếng Việt: 'đi' hay 'đi luôn' = chết, hoặc 'que' (giống như 'qua đời', pass away, trong Việt ngữ). Họ gọi 'đánh mất một vật gì' bằng: 'lak', giống với 'lạc' trong 'thất lạc'.
-  Tiếng Quảng Đông nói 'chết' bằng: [sei] phát âm giống [xẩy], tức 'tử'. Âm rất giống [sei] (tứ) mang nghĩa số 4. Từ đó người Quảng và Hong Kong rất kiêng kị con số 4. 'Mất' (thất lạc) họ gọi [xat]. Để ý, trước khi quốc ngữ thịnh hành, người Việt vẫn phát âm 'thất' bằng [xất] hay [shất] (Xem [2]).
-  Tiếng Khmer của 'Chết' là [slap] và 'mất' (thất lạc, mất mát)= [bat]. Âm [b] là âm tắc (tỏ) của âm mũi  'm'. Cả hai đều là âm môi-môi, có nhiều động tác lưỡi, vòm miệng, môi, rất gần giống nhau.
 
Đặc biệt, chỉ có tiếng Hẹ, tiếng Việt và tiếng Mã Lai, nơi này cách chỗ kia chừng 2 ngàn dặm,  có từ diễn tả 'Chết' bằng một âm giống như 'Mất' hay bà con rất gần với 'Mất':
 
Chết = Mất (Việt) => Mok (Hakka) => Mati (Mã Lai).
 
Như vậy tiếng Hẹ, chúng ta đã phát hiện, có một từ rất ăn sâu vào cấu trúc bên  trong, mang âm vận rất giống với một từ tiếng Việt, và cùng gốc với một từ ở  tiếng Mã Lai:
 
 Mất (Việt)  <=> Mok (Hakka)
 
[Mất] có âm cuối: tắc âm nứu [t] và [Mok] cũng kết thúc bằng một tắc âm [k] vòm mềm.
Người Hẹ cũng giống như người Việt gọi ‘Chết’ bằng ‘Mất’, và 'Mất' cũng có nghĩa 'đánh mất', 'mất mát' hay 'thất lạc'. Trong khi ở tiếng Mã Lai 'Mất mát' họ gọi: 'hilang' hoặc 'kalah'. Tiếng Myanmar và Khmer, tuần tự gọi 'mất mát' [baud'te] và [bat]. Âm đầu [b] rất gần với [m] của [mất], và cả hai đều là âm 2-môi, ký âm khác nhau có thể do ở quốc ngữ.
 
[Mok] tiếng Hẹ, có nơi gọi [Mong], viết theo tiếng Hoa: chính là [wang2] quanthoại, hay [vong] theo quốcngữ. Chiết Giang (Ngô-Việt) đọc [vanz] và Phúc Kiến [bong] [4]. [Vong] quốcngữ cũng mang hai nghĩa: Mất và Chết: 'vong quốc' = mất nước, 'vong mạng'= mất mạng= chết [9]. Nhưng âm [wang] hay [vong] lại khác với [Mất] và [Mok].
 
Tóm lại, 'Mất' trong tiếng Việt mang hai nghĩa: 'Chết' và 'đánh mất'.
Trong tiếng Hẹ, từ có giống âm với [mất] là [Mok] cũng hai nghĩa: 'Chết' và 'đánh mất'.
 
[Mất] và [Mok] là một cặp tối đa của hai từ thuộc hai thứ tiếng khác nhau, mang cùng gốc, có cùng một cấu trúc thật sâu. Và chỉ có [Mok] và [mất] mới giống nhau được toàn diện, trong khi đối với các thứ tiếng khác, [Mất] chỉ giống được một mặt mà thôi.
 
Si mê và Xi nê
 
Trong một bài trước về 'Ảnh hưởng chủng Thái' theo với đẳng thức:
 
Việt (Nam) = Âu (Thái-cổ) + Lạc (Việt-cổ) // Môn Khờ-Me + Nêgritô + Đa Đảo
 
tức người Việt Nam là kết quả hợp chủng và tiến hoá từ 2 chủng chính Âu (Thái-cổ) và Lạc (Việt-cổ), trên nền tảng chính Môn-KhờMe, chúng ta đã nhấn mạnh, âm vận của chủng Thái-cổ tiêu biểu ngày nay bằng tiếng Quảng Đông, tiếng Thái Lan, và tiếng Mường, tất cả đều chỉ có âm 'X' (theo quốc tế: [s]) chứ không có âm 'S' (quốc tế: [sh]).
 
Ảnh hưởng tộc Thái-cổ phản ánh qua tiếng Việt tại những khu vực người Việt (Kinh) có khuynh hướng phát âm 'X' [s] và 'S' [sh] hoàn toàn bằng [X] hoặc lẫn lộn qua lại với nhau. Thí dụ: -  'bổ sung' họ phát âm như 'bổ xung'. -  'Sung sướng' thành 'Xung xướng'.       -  'Si mê' họ nói 'Xi mê'. -  'sâu sắc' như 'xâu xắc', v.v.
 
Bởi người Việt và tiếng Việt có 2 cội nguồn Âu (Thái)+Lạc (Việt) trên nền tảng Môn-Khmer (cũng không có âm 'SH') cho nên âm 'SH' (thí dụ: sâu sắc) len vào tiếng Việt ngày nay, là do ở một số các tộc Lạc (Việt), đặc biệt Hẹ (Hakka) - ở phía Đông nước Tàu. Để ý người Chiết Giang, Giang Tô (tiếng Ngô-Việt) chỉ có âm gần 'S' thôi chứ không hoàn toàn 'S'. Thí dụ: Tên thành phố Thượng Hải, người Chiết Giang & Giang Tô phát âm 'X'an-hei' trong khi quan thoại: SHanghai.  Sau đây chúng ta sẽ xem tiếng Hẹ ảnh hưởng trên tiếng Việt ở âm 'S' (tức 'SH' quốc tế) ra sao, và trong đó có âm nào gần giống tiếng Việt hay không. Từ đó chúng ta sẽ có thêm một thành tố để qui tiếng Hẹ (Hakka) về phía cùng gốc tiếng của dân Lạc bộ Trãi, một gốc nguồn ngôn ngữ của người Việt Nam. 
 
Bảng ghi chú sau tóm tắt âm 'x' [s] và 's' [sh] trong các phương ngữ bà con với tiếng Việt:
 
Việt
Hẹ
Mân (P. K)
Yue (Q. Đ)
Ngô-Việt*
Quan thoại
Ghi-Chú
thiếu (= ít)
shau hay xau
chio
xiu
xao
shao
/sh/ => /Th/
sĩ  (sĩ phu)
xii hay xu
xu
xi
zi
shi
Mân: âm 'Z'
sinh (sống)
xang
chhenN
xaang
xang
sheng
sh: V & QT
thạch (đá)
shak hay xak
chieh
sek / daam
za
shi
daam => đá
xuyên(sông)
chon / tson
chhoan
xyun
ts'uan
chuan
x: Q. Đ.
xấu (sửu)
chiu / tsiu
chhiu
tsau
ts'aw
chou
x (V)= s (H)
xuân (mùa)
chun / tsun
chhun
tcheon
ts'eng
chun
X <= ch
xưởng (cơ)
chong
chhiang
tchong
ts'ang
chang
X => ch
số (con số)
xu / xii
xiau
xou // xok
xu
shu
sh: Q.T.
sắc (màu)
xet / xek
xek
xik
xak
she // xe
sh: Q.T.
song (đôi)
xung / xong
xiang
xoeng
xang
shuang
sh => QT
xã (hội)
xa / sha
xia
xe
zoe
she
sh: Hẹ & QT
xà (rắn)
sha
choa
xe
zoe
she
sh: Hẹ & QT
* Ngô Việt là phương ngữ Chiết Giang-Giang Tô-Thượng Hải nói chung. Địa bàn của nước Việt của Câu Tiễn- Tây Thi và Ngô của Phù Sai - Hạp Lư.
* Mân: phương ngữ của dân Mân Việt tức Phúc Kiến (P.K.), Triều Châu.
* Yue, tức Việt (chủng Âu) gồm hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây.
** Dấu  / có nghĩa: 'hay là'
 
Bảng đối chiếu âm 'X' và 'S' ở trên có thể đưa đến những nhận xét sau:
(a)  Như trong loạt bài 'Từ chữ Nôm đến quốc ngữ', chúng ta thấy phân biệt âm 'X' và 'S' trong tiếng Việt có vẻ bất chợt, chứ chung chung, không theo sát với biến chuyển giữa 'X' và 'S' (tức [SH] theo ký âm quốc tế), giữa các phương ngữ Trung Hoa, nhất là quan thoại.
(b)  Phân biệt 'X' và 'S' trong tiếng Việt, có lẽ do các tôn sư quốc ngữ đặt ra để giải toả bớt cảnh đồng âm dị nghĩa trong tiếng Việt. Thí dụ: 'xướng ca' phân biệt với: 'sung sướng'. 'Xá' (tha tội, qt: [she]) phân biệt 'sá gì', 'sá chi',.... Điển hình, từ 'Hán quốc ngữ' 'sửu' mang nghĩa 'xấu', nhưng thật ra 'sửu' chỉ hợp với âm gần giống [chou] của quan thoại mà thôi. Đối với các phương ngữ khác, 'sửu' phát âm gần 'xửu' hơn.
(c)  Đặc biệt trong số các tộc Yueh (Việt), chỉ có tiếng Hẹ chứa âm [sh], góp phần vào hình thành tiếng Việt (Nôm), mang âm [sh] như 'sâu sắc'. Quảng Đông tuyệt nhiên không có âm [sh] bởi họ có gốc Yueh chi Âu, tức Thái-cổ. Tiếng Thái Lan và Mường cũng không có âm [sh] và chỉ có [x] mà thôi.
(d)  Tiếng Mân (Phúc Kiến) có âm gần gũi [sh] và xa [x] hơn, là [ch] hay [chh] (phiên âm quốc tế /tsh/).
(e)  Tiếng Ngô-Việt (Thượng Hải) chỉ có âm [ts] hay [x] chứ không có âm hoàn toàn [sh].
(f)  Âm 'X' tiếng Việt không nhất thiết biến chuyển thẳng từ âm 'X' của quan thoại hay của Hẹ. Ngược lại, âm 'SH' của quan thoại hay của Hẹ không nhất thiết biến thành âm 'SH' (tức 'S') của tiếng Việt. Thí dụ: Xã hội <= she hui (qt), sha hoi (Hẹ). Xà (rắn) <= she (qt), sha (Hẹ). Thí dụ khác: Sĩ (V) <= SHi (QT) & Xii (Hẹ).
(g) Đặc biệt, từ chỉ 'sông' tiếng Hẹ phát âm như [tson] rất gần với [sông] Việt, và mang cùng gốc với [sungai] tiếng Mã Lai. Một lần nữa [sh] tiếng Việt tương ứng [x] Hẹ và Mã Lai. Quan thoại đọc 'Chuan' nhưng các tôn sư quốc ngữ ký âm là 'Xuyên'. Một chuyện rất ngộ nghĩnh: 'Sông' là một từ Nôm kiểu Hẹ và Mã Lai. Tiếng Hán bắt chước gọi 'chuan' . Các tôn sư quốc ngữ ký âm trở ra thành 'xuyên', và người Việt xưa nay lầm tưởng đó là một từ thuần Hán, và gọi đó từ Hán-Việt của 'sông'. Thật ra 'xuyên' là một phiên âm chạy một cái vòng lớn của 'sông'. Y hệt như 'tửu' cho 'tjiu' hay 'jiu' hay 'rượu' ('jựợu'). 'Jau' hay 'jiu' hoặc 'yiu' cho 'giàu' và 'nhiêu'. 'Sửu', dùng /s/ thay cho /x/, đáng lẽ viết 'xửu' hay 'xẩu', tức 'xấu' (như âm [tsau] quảng đông) - chứ thật ra 'sửu' không phải là từ Hán Việt của 'xấu'. 'Xấu' tự nó là một từ gốc 'Hán', có lẽ Hán Hoa Nam, tức Bách Việt, chứ không phải thuần Nôm. Y hệt với [mất] xuất xứ từ [mok] của Hakka, như bàn phía trên.
(h)  Đặc biệt nhất, so sánh với toàn thể các phương ngữ, tiếng Hẹ mang âm gần giống tiếng Việt nhất trong bảng đối chiếu ở trên: sĩ= xii; sinh= sanh= xang; thạch= shak; xuyên= sông= tson; xuân= tsun; xưởng (hãng)= chong; số= xu; sắc= xek; xấu (sửu)= tsiu//chiu; song= xong; xã= xa; xà= sha. Tổng cộng 12 từ trong số 13 từ. Từ còn lại ('thiếu') có thể nằm luôn vào danh sách đó nếu nhớ lại luật biến chuyển âm vận giữa âm 'au' và 'iu' giữa các phương ngữ tiếng Hoa. Đó là 'thiếu' => 'thau' => shau. Y hệt như: Andy Lau => Liu De Hua (Lau => Liu (Lưu), Liu Đức Hoa); cầu => kiều; Nam Chiếu => Nan-Zhao, như đã trình bày trong bài 3 của loạt bài 'Từ chữ Nôm đến quốc ngữ'.
(i)   So sánh 13 từ này giữa tiếng Việt và Hẹ, và tạm vay mượn ý niệm 'cặp tối thiểu của 1 sinh ngữ' (như: pear (lê) & bear (con gấu), shop (tiệm) & chop (chặt)), chúng tôi mạo muội xếp chúng vào 13 'cặp tối đa giữa 2 ngôn ngữ' Việt và Hẹ. 'Cặp tối đa', như: tson (Hẹ) & sông (Việt), xà (Việt) & Sha (Hẹ), v.v. chính là những cặp từ lấy từ hai thứ tiếng khác nhau, giống nhau tối đa, chỉ trừ chừng một âm, và mang cùng một nghĩa y hệt nhau. Khác biệt chút ít đó có lẽ do ở quá trình hằng ngàn năm cọ xát với các ngôn ngữ chung quanh, tại hai môi trường khác biệt, ở pên Tàu và bên Việt Nam, cũng như do ở sự biến đổi âm vận do ở ký âm dùng a-b-c khi tạo dựng chữ quốc ngữ.
 
Tóm tắt, tiếng Việt mang thêm âm chữ 'S' (tức [SH] quốc tế) do ở hiện diện của người Hakka (Hẹ) tại xứ Việt cổ, có lẽ cùng lúc với chủng Thái-cổ. Tiếng Hẹ trước đó mang ảnh hưởng âm [sh] từ phát âm 'quan thoại' của tộc Hoa sống gần gũi tại lưu vực sông Hoàng Hà. Đóng góp [SH] vào tiếng Việt là đóng góp bổ xung cho âm [X] độc nhất của tộc Thái-cổ. Ngoài đóng góp âm, chúng ta thấy tiếng Hẹ có nhiều từ dễ dàng tạo nên những 'cặp tối đa'  với những từ tương ứng trong tiếng Việt.  
 
Tường và Vách
 
'Tường' và 'vách', một lần nữa, sẽ cho thấy lối kí âm đánh một vòng tròn lớn của thứ tiếng các bậc tiền bối thường gọi: tiếng 'Hán-Việt' [5]. Chung qui cũng do ở thiếu thốn phương tiện kiểm chứng với các phương ngữ tiếng Hán, đặc biệt tiếng Hẹ.
 
Tiếng Hán Việt của 'Vách' là 'Bích', và chúng ta sẽ thấy y như 'nhiêu= giàu', 'tửu= rượu', 'xửu= xấu', 'bích' thật ra chính là lối phát âm gần đúng của 'biách' tức 'vách'. Chứ không phải Hán Việt gì hết.
 
Tiếng Tàu thường có 2 từ khác nhau để chỉ WALL tiếng Anh: qiang (tường), và bi (bích). Thông thường họ gọi chung 2 từ với nhau: 'qiang bi' => tường bích.
 
Người Hải Nam phát âm: 'xio' cho 'qiang' và 'biá' cho 'bi'. Thượng Hải: 'Chiang bei'.
 
Gạt 'tường' sang một bên, chúng ta nhớ người Nam Bộ phát âm 'Vách' như [Byách].
 
Thế ở thời Nôm na, người Việt phát âm 'Vách' ra sao? Từ điển chữ Nôm của Vũ Văn Kính ghi có 3 lối phát âm tùy theo cách viết:
 
- Cách 1: Vay mượn 'Bích', tức [Bi] của Tàu:
- Cách 2: Biến đổi chút ít bằng cách kẹp chữ 'Thổ' ([tu] ) đằng trước 'bích': 土壁  tạo
                thành một từ 'thuần Nôm', gợi lên ý làm bằng đất: nhà tranh vách (byák) đất.
- Cách 3: Giống cách 2, nhưng viết 'Bích' trước rồi kẹp với chữ 'Phí' ([fei] = lệ phí, phí
                tổn), 壁費 có vẻ mang hàm ý cái thứ vách tường thật kiên cố, rất tốn kém.
 
Cả ba cách đánh vần chữ Nôm đều xử dụng âm đầu [B] của âm 'Bích' ([Bí] hay [Bik] tiếng Hán). Như vậy, ở thời chữ Nôm chưa có quốc ngữ, người nước Nam phát âm 'Vách' dựa trên âm 'B': 'Byách'. Y như kiểu người Nam bộ và người Mường [6].
 
Thế tiếng Hẹ của 'Vách' là gì? Họ phát âm  [Byak] (xem: [7] & [8]). Giống kiểu Nam bộ, chứ không giống âm chữ 'V' của quốc ngữ.
 
Tức một số điểm khá ngộ nghĩnh đã được phát hiện:
-  'Vách' xưa nay tưởng thuần Nôm, thật ra là một từ mang gốc chủng Yueh từ hồi còn ở pên Tàu, được các tôn sư quốc ngữ biến thể từ âm nguyên thủy: [biák].
-  'Bích' xưa nay tưởng từ Hán Việt, lại chính là lối phát âm Nôm-Hẹ và Nôm-na nguyên thủy ở thời chưa có quốc ngữ. 'Bí'   có lẽ là một từ chủng Hoa đã vay mượn từ chủng Yueh. Vay từ  [Biak] hay [Bjách] mà các tôn sư quốc ngữ viết lại thành: 'Vách'.
 
Tiếng Hẹ lại chia xẻ cùng với tiếng Việt thêm một cặp tối đa nữa, 'vách & biak', ăn thật sâu vào cấu trúc ngôn ngữ thời xa xưa.
 
Cặp tối đa
 
'Cặp tối đa giữa hai ngôn ngữ' là một ý niệm ngoại suy từ 'cặp tối thiểu của một ngôn ngữ' tạm đề ra để minh giải sự giống nhau như hai giọt nước của một số từ tiếng Hẹ và tiếng Việt. Đặc biệt có nhiều cặp tối đa có cấu trúc ăn thật sâu vào văn hoá của người Hẹ và người Việt như đã trình bày phía trên.
 
Tóm tắt, chúng ta thấy 2 điểm tương phản nhưng lại đồng thuận với giả thuyết ở đây:
 
-  Người Hẹ và tiếng Hẹ có những đặc tính cho biết họ từng sống gần gũi với người Hán tộc, xuất xứ từ miền cực Bắc nước Tàu, nhưng:
-  Người Hẹ và tiếng Hẹ lại có những đặc tính khác cho thấy họ không thuộc Hoa tộc mà lại có bà con rất gần với nhóm Bai Yueh (Bách Việt) ở Hoa Nam xưa, và nhất là với tộc Việt của người Việt Nam.
 
Sau đây chúng ta sẽ sưu tầm thêm những cặp tối đa tiêu biểu giữa tiếng Hẹ và Việt. 
 
Tiếng Việt
Tiếng Hẹ
Ngôn ngữ khác #
GHI CHÚ
bò (ngưu)
ngiu
ngâu (QĐ)
mưa ngâu (Ngưu lang Chức nữ). *
dạ 
za  // ya **
shi
Dạ = vâng. Hẹ có âm [z]
dùng (use)
zung // yung **
yong
Hẹ có âm [z] => [Dz] phát âm Bắc
chiếm
chim
zhan
xâm chiếm
muỗi (con)
mun
wenzi (QT), Muh (Kh), nyaMuk (Mã Lai)
Muỗi (V) gần Hẹ, Khmer, Mã Lai hơn quan thoại.
hưu (nghỉ)
hiu // hieu
hiu (Pk) jau (Qđ) xiu (Qt) 
[hưu] gần Hẹ nhất
gả
ga
jia
dựng vợ gả chồng. Hẹ y hệt Việt
gắp
gap
gap (QĐ)
gắp = dùng đũa gắp đồ ăn. Gần Hẹ.
hả
ha
hor  (QĐ)
what? = hả. Anh đó hả?
kết (thúc)
ged // ked
jie shu
Việt= Hẹ. [g]= [k] // [d]= [t] tắc âm
kiều (cầu)
kiao
qiao
Hẹ có âm [K]. Quan thoại không có.
nghiêm (túc)
ngiam
yian
để ý Hẹ có âm đầu /ng/ và cuối /m/
phổi
fui
fei
Hẹ phát âm [pui]= [fui] cho 'phổi'
phạm (tội)
fam
fan zui
để ý tiếng Hẹ có phụ âm cuối 'm'
quạ (chim quạ)
vu-a
wu ya
[vu-a]=> quạ. Hẹ có âm [V] thay [W]
giếng
jiang
zing (Qđ) jing
Việt = Hẹ > Qđ & Qt
ngông (ngu)
ngong / ngo
ngong / ngoh (QĐ)
Thái cũng giống: [ngo]. Hẹ có [NG]
hùng (dũng)
hiung
iong (Pk) xiong
Hẹ[H] như Việt, tương ứng [X] QT
lạnh
lang
leng
âm [L] Hẹ, không phân biệt âm [N]
Nam (south)
Lam
Nan
Hẹ có âm cuối /M/. QT không có
mong (hy vọng)
mong
xi wang
wang => vọng
buá (phủ)
bu
fu
(hammer). Búa (V) = Bu (H) > QT
gặp (kiến)
kian
hian (Pk) jian
[k] V = [k] Hẹ, âm không hơi thở
sát (giết)
xad
sha
Âm [d] cuối Hẹ rất giống [t] Việt  
bạt (bộp tay)
pok // pak
p'a (NV) phah (Pk) pai
bạt tay => tiếng gốc Hẹ & Hoa Nam
lũy (đồn lũy)
lui
lui (Pk) leoi (Qđ) lei
Việt = Hẹ = Phúc Kiến (Pk)
vãn (kết)
van
oan (Pk) wan
[v] Việt= [v] Hẹ, tương đương [w] Qt
kiện (tụng)
kien
kian (Pk) gin (Qđ) jian
[k] Hẹ = [k] Việt. QT dùng âm [j]
khoa học
khox hok
ke xue
Hẹ có âm [KH]. /K/ QT có hơi thở
có thể
kon theux
ke yi
Hẹ [k] giống âm [c] trong 'có'
học sinh (sanh)
hok xang// xien
hok xaang(Qđ) xue sheng
Âm [sh] V = âm [sh] QT
 
CHÚ THÍCH:
# Pk = Phúc Kiến;  Qđ = Quảng Đông;  NV = Ngô Việt (Chiết Giang, Giang Tô, Thượng Hải)
# Kh = Khmer
# Âm Quan thoại (Phổ thông) không có dấu ngoặc.
** Để ý tất cả âm bắt đầu bằng /Y/ quan thoại, khi chuyển sang Hẹ phân cực thành 2 âm /y/ và /z/
 
Từ bảng đối chiếu các cặp tối đa những từ tiếng Việt và Hẹ ở trên, chúng ta có thể thấy:
 
1.  Tiếng Việt và tiếng Hẹ rất giống nhau. Sở dĩ tiếng Hẹ còn giữ được nhiều nét giống tiếng Việt hơn hầu hết các thứ phương ngữ Bách Việt khác là do ở tính ít chịu hội nhập của người Hẹ với người Hán, cũng như những tộc người chung quanh, như người Hmong, Yao, Quảng Đông, Hồ Nam, v.v. Người Hẹ vẫn thường được gọi một thứ Do Thái của Trung Hoa.
 
2.  Tiếng Hẹ có rất nhiều âm giống với các phương ngữ tộc Yueh, chứ không giống tiếng Hán quan thoại ở phía Bắc. Đặc biệt:
   (a) Cũng giống như tiếng Việt, tiếng Thái, tiếng Quảng, Hẹ và các phương ngữ gốc Yueh (Âu và Lạc) còn giữ âm [NG] - trong khi Hán quan thoại không có.
Thí dụ: [ngiu] = [ngâu] = ngưu = bò; [ngiam] = nghiêm;  [ngo] = ngu, ngố
   (b) Âm [g] tiếng Việt và Hẹ, tương ứng với âm [j] quan thoại.
Thí dụ: [gai] = [ji] = gà;  [ga] = gả (gả chồng) = [jia] qt.
   (c) Như tất cả các phương ngữ tiếng Hán, Hakka không có nhị-âm cuối theo dạng [ay] hay [uy] như tiếng Việt. Điểm này cho thấy ảnh hưởng quan trọng của hạ tầng Môn-Khmer. Một thứ tiếng có âm cuối theo dạng [uy] [ay]: [camay]: cái / mái; [Malay]: Mã Lai; [licay]: đàn ông, chồng; [nei]: nầy. Theo trích dẫn trong bảng phía trên: 'Đồn lũy' mang âm cuối [uy] có tương đương âm Hakka [Lui], không phải [uy].
   (d)  Hakka cũng có âm đầu [h] y như tiếng Việt, trong khi tương đương trong quanthoại là âm [X]: hùng=> hiong (Hẹ)=> xiong (qt); học sanh=> hok xang (Hẹ)=> xue sheng (qt); hưu=> hiu (Hẹ)=> xiu (qt).
   (e)  Hakka có âm đầu [K] không-hơi-thở y như tiếng Việt. Quan thoại không có, mà chỉ có [k]-hơi-thở, thông thường viết theo Việt quốc ngữ phải kèm [h] thành => [Kh]. Thí dụ: kiều (cầu)=> kiao (Hẹ)=> qiao (qt); kết=> ked (Hẹ)=> jie (qt); kiện=> kian (Hẹ)=> jian (qt). KHoa học=> KHox hok (Hẹ)=> Ke xue (qt) {để ý [K]-qt có hơi thở}; khẩu (miệng)=> khieu (Hẹ)=> Khau (Pk)=> Kou (qt). {[kh] Việt= [kh] Hẹ = [k] qt}
   (f) Từ 'búa' một lần nữa cho thấy tính bất chợt của tiếng Hán-quốc-ngữ. 'Búa' thường xem một từ thuần Nôm, nhưng thật ra thuần ...Hẹ. Tiếng Hẹ là [Bu] rất giống 'Búa', trong khi Hán Việt gọi [phủ] bắt chước quan thoại [Fu].
   (g) Tiếng Hẹ cũng mang một 'tật' chung của các phương ngữ miền Hoa Nam, trong việc thiếu phân biệt giữa tử âm [L] và [N]. Trong tiếng Việt, cũng có nhiều khu vực y hệt như vậy: - Anh nàm gì thế? Thay vì: - Anh làm gì thế? theo kí âm của quốc ngữ. Thật sự theo thiển ý, đã từng trình bày nhiều lần trước đây, phân biệt âm [L] và [N] hoàn toàn không cần thể hiện trong môi trường Nôm, hoặc Hán, không dựa trên thứ chữ cái a-b-c. Cả hai (l và n) đều là âm nứu, một biên (l) một mũi (n), có cách phát âm lưỡi va chạm vào nứu ở những vị trí rất giống nhau. Ở bảng trên, ta thấy (hướng) 'Nam' người Hẹ có thể thoải mái đọc [Lam], y như người Quảng Đông. Để ý âm cuối 'Nam / Lam' là [m] trong khi quan thoại chỉ toàn [n]=> [Nan].
 
Toàn bộ âm cuối {p  t  k  m  n  ng  nh}
 
Bảng so sánh phía trên cũng cho thấy phần nào tiếng Hẹ giữ vững toàn bộ âm cuối p, t, k, m, n, và ng, y hệt như tiếng Việt. Trong khi Quan thoại chỉ có hai âm cuối /n/ và /ng/.
 
Xin xem thêm chi tiết về âm cuối qua bảng so sánh sau:
 
âm cuối
Việt
Hẹ
QuảngĐông
Quanthoại
Mân (PK)
Ghi Chú
p
thiếp
ziap
tsip
gie
chhiap
qt không p
p
pháp
fap
fat
fa
hoat
p => p
t
luật
lut
leot
lu
lut
qt không t
t
thất
sik
sat
shi
gek
t => k (Hẹ)
k
thạch
sak
sek
shi
chieh
k <=> k
k
ngọc
ngiuk
yuk
yu
gek
k <=> k
k
bích (vách)
biak
bek
bi
piah
qt không k
k
mực
met
mak
mo
bak
k => t (Hẹ)
m
chìm
chim
zam (zhầm)
zhen
sim
qt không m
n
kiến (gặp)
kian
jin
jian
hian
qt có 'n'
ng
hướng
hiong
hoeng
xiang
hiong
qt có  'ng'
 
Bảng so sánh trên cho thấy tiếng Việt và Hẹ có chung tất cả âm cuối {p  t  k  m  n  ng} như các phương ngữ Hoa Nam, trong khi quan thoại chỉ có 2 âm cuối {n   ng}.
 
Tiếng Việt còn có thêm âm cuối {nh} như trong: lanh tanh, nhanh, canh, nhánh, v.v. Theo thiển ý do ở ngôn ngữ hạ tầng và bản địa của nhóm Môn Khmer (thí dụ: inh-jut= nặng nhọc; inh-tsơng= thon thả). Theo trang web [7], một số chi bộ tiếng Hẹ vẫn còn giữ âm đầu [ny] tức [nh] y như tiếng Việt: nhanh nhẹn, nhăn nhó như khỉ, nhằm nhò, ... Cũng giống tiếng Môn-Khmer: [nyai] => nhai; [nyou]=> màu nâu (tiếng Việt lột mất âm [y]); [Nyunt]=> phát âm kiểu Việt: [Nhunt], tên một họ Miến Điện (Myanmar).
 
Phân cực phát âm từ bên Tàu
 
Trước khi kết thúc ba bài về người Hakka, chúng ta hãy lướt qua vài lối phân cực trong cách phát âm một số chữ hoặc từ trong tiếng Việt. Đề tài này thật ra rất rộng, đã được phân tích nhiều trong loạt bài 'Từ chữ Nôm đến quốc ngữ', và ở đây xin liên kết với phân cực tương tự trong tiếng Hẹ.
 
Tóm tắt các thứ phân cực như giữa âm [V] & [Bj], [Y] & [Dz], các từ [Chu] & [Châu], v.v.,  đều có đồng bệnh giữa các phương ngữ tiếng Hoa với nhau. Các tôn sư quốc ngữ, có thể vì một số lí do nào đó, đã khuyến khích duy trì các phân cực này, trong việc truyền bá chữ quốc ngữ cho người nước Nam vào thuở ban đầu.
 
1. Âm  [V] & [Bj]
 
Người Việt phía Bắc phát âm những từ như: về, vợ, vui, voi, văn, vững vàng, vách, ... hoàn toàn theo âm [V] của quốc tế như Vérité (Pháp) hoặc Verification (Anh). Người phía Nam phát âm [V] như kiểu phiên âm quốc tế [Bj] (hoặc chữ cái Hi-Lạp 'beta') - đọc ra như âm [By]: byề, byợ, byui, byoi, byăn, byững byàng, biách, ...
 
Hãy xem 'Vân Nam' và 'Lĩnh vực'.
Vân Nam: Quảng Đông đọc 'Wen Lam' - Quan thoại, 'Yun-Nan': Phân cực âm [W] và [Y]
Lĩnh Vực: Quảng Đông phát âm 'Ling Wiq', trong khi Quan thoại, 'Ling Yu'. [W] & [Y].
 
Phát âm chữ V theo kiểu [Bj], như 'Beauty [Bju:ti]' Anh ngữ, hiện vẫn còn giữ trong nhiều từ thuộc tiếng Mường. Thí dụ: Bua [bjua] => Vua; Biết [bjiết] => Viết; 
Bải [bjải] => Vái, v.v.. Theo một vài lí do kĩ thuật của ngành ngữ học, khi kí âm sang dạng a-b-c các tôn sư đều lột bỏ âm thứ 2 của [Bj] và chỉ giữ lại [B]: ông Bua = ông Vua.
Âm [Bj] cũng đã hiện diện trong tiếng bản địa xưa nhất: Môn Khmer, và còn tồn tại đến ngày nay trong các tiếng Myanmar và Khmer. Thí dụ:
- Myanmar (Miến Điện): byaun-de = đổi xe (vận chuyển), bya-de = màu xanh
- Khmer (Cam-Bốt): biak = chữ (word); raw-biang= hành-lang
 
Ở phần trên chúng ta cũng đã thấy phát âm [Byách] Nam Bộ của từ 'Vách' giống y như phát âm của người Hẹ, và gần với gốc [Bi] quan thoại, và [Bích] Hán đọc theo quốc ngữ, hơn 'vách' rất nhiều.
 
Tra cứu những trang web viết về ngôn ngữ Hẹ cũng cho thấy tiếng Hẹ và một số phương ngữ gốc Lạc Việt, đặc biệt Ngô-Việt (tức Chiết Giang - Giang Tô), hiên vẫn giữ âm [V].
Thí dụ: con 'quạ' tiếng Hẹ có phát âm theo chữ [V] => Vu-a. Trong khi quan thoại và quảng đông (gốc Thái-cổ) không có âm [V]. Chỉ có âm [W]: Quan thoại: [Wu-ya] = con quạ. Tiếng Mường, hoặc Việt cổ: con Way => con Voi. Một Vạn, tức 10000, có âm y hệt trong tiếng Hẹ: [Van].
 
Trong phương tiện ngày nay, người ta có thể phân loại trở lại, từ nào hồi xưa, có khuynh hướng phát âm theo [V] (Việt-cổ) (Van (Hẹ)= vãn (V)= kết), hay [W] (Thái-cổ) (con Woi), từ nào có khuynh hướng phát âm như [Y] hay [Bj], cho cả hai chủng Việt và Thái-cổ (ông Bjua= vua; bjách tường= vách). Bằng cách đối chiếu với các thứ tiếng của người dân tộc và quan trọng hơn hết, tra cứu lối đánh vần trong chữ Nôm như trình bày ở trên.
 
Tóm lại, qua [biák = vách] và [van = vạn = 10000] chúng ta thấy tiếng Hẹ rất giống tiếng Việt, ngay trong phân cực giữa [Bj] và [V] (hay [W]).
 
2. Âm [Y] và [Dz]
 
Phân cực giữa âm [Y] và [Dz] đã được phân tích rất tỉ mỉ trong các bài 'Từ chữ Nôm...'. Từ điển người Hẹ ([7] & [8]) cho thấy người Hẹ cũng phân cực y hệt như vậy.
Nhắc lại ở Bắc bộ, phát âm những từ Việt ngữ bắt đầu bằng chữ 'D' như:
dạ (đêm), diệp (lá ), diều, dầu, dược, dương (dê), dụng (dùng),  ...hoàn toàn theo âm [dz]:
dzạ, dziệp, dziều, dzầu, dzược, dzương, dzụng, ...
 
Và cũng có nhóm (Nam bộ) đọc tất cả theo âm [Y] (quốc tế: [J]):
Yạ, yiệp, yiều, yầu, yược, yương, yụng,...
Quan thoại và Quảng Đông không phân biệt giữa [Y] và [Z] hay [Dz]. Chỉ có âm [Y], thỉnh thoảng biến âm với [W]: Wân= vân= mây => Yun (qt). HẸ: Yun, giống Quanthoại.
 
Nhưng đặc biệt Hẹ phân cực [Y] và [Dz] (kí âm [Z] hay [J] trong từ điển), y kiểu Việt:
 
Có nhóm phát âm theo [Y], y như kiểu Nam bộ:
Ya, yab, yao, yiu, yok, yong, yung,...
 
Và có nhóm toàn theo âm [Z], y như kiểu Bắc bộ (11):
Za, zab, zao, ziu, zok, zong, zung,...
 
Tức người Hẹ cũng có phân cực trong lối phát âm giữa [Y] và [Dz] y hệt như người Việt cho phần lớn các âm quan thoại và quảng đông, bắt đầu bằng [Y]: dung, dũng, dị, v.v.
 
3.  Châu Nhuận Phát và Đông Chu Liệt Quốc.
 
Trong bài 'Từ chữ Nôm' chúng tôi đưa ra giả thuyết sở dĩ có sự phân cực 'Chu & Châu' là do ở phía Nam ưa kị húy Chúa Nguyễn Phúc Chu với tên riêng 'CHU' nên đã đổi tất cả những từ phát âm 'Chu' thành 'Châu'. Tra cứu bất cứ quyển từ điển tiếng Hán nào, chúng ta thoạt tiên sẽ thấy có vẻ như có sự lầm lẫn đâu đó của tiền nhân, bởi lí do: Những từ pinyin (quanthoại) ghi [zhou] tức [châu] , phía Việt ngữ thường biến thành 'Chu':
 
Zhou (Châu) = tuần lễ, tuần hoàn. Zhou ji (Châu kỳ)=> Chu kỳ (period, cycle); Zhou nian (Châu niên)=> Chu niên; Zhou Wei (Châu Vi)= Chu vi; Zhou You = Chu du; Zhou En Lai = Chu Ân Lai, đáng lí Châu Ân Lai, Đông Chu đáng lý Đông Châu [15], v.v..
 
Những từ người Hoa gọi là [Zhu] (Chu) , người Việt cũng gọi 'Chu', như 'chu hồng' (màu đỏ thắm) và đôi khi cũng gọi 'Châu':
 
Zhu = ngọc trai => Zhu Bau => Chu báu, hay 'Châu báu';
Họ ZHU: Zhu Yuan Zhang => Chu Nguyên Chương (rất đúng);
Zhu Rong Ji => Chu Dung Cơ. NHƯNG:
Zhen Zhu Gang => Trân Châu Cảng, đáng lẽ phải Trân Chu Cảng. Nhưng bởi 'Trân Châu Cảng' [16] được Việt-hoá trước tiên từ triều đình ở Huế hoặc tại phía Nam, nên 'Trân Châu Cảng' (dùng 'Châu') được dùng luôn từ đó đến nay. Ngoài ra 'Chu' cũng ưa biến thành 'Châu' ngay tại phía Bắc, trong tên riêng: Bích Châu, Hồng Châu, Ngọc Châu, v.v.
 
Hoa: ZHOU (Châu) => Việt: CHU. Hoa:  ZHU (Chu) => Việt: CHU / CHÂU
 
Tiền nhân học tiếng Tàu không đến nơi đến chốn hay chăng? Hay vì ở phía Bắc toàn là thần dân chúa Trịnh không cần kị húy chúa Nguyễn, nên mang khuynh hướng dùng 'Chu' thả cửa? KHÔNG, Không phải.
 
Người Việt biến chuyển 'Châu' & 'Chu' qua lại với nhau, không phải ở kị húy, mà bởi họ là hậu zuệ phần nào của người Hẹ-cổ tức giống Bách Bộc xưa ở bên lưu vực sông Hoàng Hà. Người Hẹ-cổ đã chuyển âm Hoa 'Zhou' thành 'Zhu' và giữ vững 'Zhu' như 'Zhu' (Chu), hay đôi khi 'Châu' trước khi họ zi cư sang xứ Việt cổ. Biến chuyển này nằm gọn trong một biến chuyển thường xuyên hơn giữa các phương ngữ ở Hoa Nam. Đó là biến chuyển giữa âm [iu] và [âu] (hay [ou] hoặc [ao]). Thí dụ: cầu => kiều. Quảng Đông: gau => Phúc Kiến: Kau => Hẹ: Giu / Kieu. Tài tử Andy Lau (QĐ) => De Hua Liu (qt, tức Lưu Đức Hoa). Yêu cầu (V)=> Yau kieu (P.Kiến). Hưu (trí)=> Jau (qđ) => Hiu (Hẹ).
 
Định luật 'au-iu' phát hiện qua loạt bài 'Từ chữ Nôm': 'Nếu một phương ngữ tiếng Hoa có từ mang âm [iu], thế nào cũng có từ tương đương thuộc phương ngữ khác mang âm [au] (hay [ou] hoặc [ao]). Và ngược lại, có [ou] ở chỗ này, thế nào cũng có [iu] chỗ khác'.
 
Do đó khi quan thoại cho âm [Zhou] tức 'Châu':
-         Quảng Đông gọi [zau]
-         Phúc Kiến hay Triều Châu, lại gọi: [Chiu]
-         Thượng Hải: [zhou], và đặc biệt
-         HẸ: [zhiu] hay [ZhU]. [Zhu] chính là [zhiu] lột bỏ đi âm [i] khi đọc tắt và nhanh. Hẹ đọc [Zhu] y hệt như kiểu Việt cho từ cả quan thoại lẫn quảng đông đều đọc [zhâu]. Thí dụ: Mùa Thu, quan thoại đọc [qiu], quảng đông: [tsau] => Hẹ: [tsiu] => lột [i] => [tsu] => THU (mùa Thu).
 
Trong khi đó, lúc quan thoại phát âm [Zhu] tức 'Chu'. Khuynh hướng vẫn giữ nguyên âm [zhu] bởi không phải [zhiu] (để có thể biến qua trở lại với [zhou]):
-         Quảng Đông gọi [zyu] (tức không hẳn là [ziu] để cho phép chuyển sang [zou])
-         Phúc Kiến và Triều Châu gọi [Chu]
-         Thượng Hải: [zhi], và
-         HẸ: [zu] hay [zhu] => Việt: vẫn giữ [Zhu] => 'Chu'.
 
Tóm lại người Việt, đặc biệt phía Bắc, không phải vì lộn xộn kị húy Chúa Nguyễn Phúc Chu, khi họ tống các từ đáng nhẽ phát âm [Châu] luôn hết vào [Chu], nhưng vì họ đã đọc và nói y hệt trung thực với bản năng của người có gốc Bách Bộc tức Hẹ-cổ. Bởi phát âm [Zhou] khi sang phương ngữ Hẹ cổ đã được biến âm hai lớp. Lớp đầu [Zhou] trở thành [Zhiu]. Lớp thứ hai [Zhiu] đọc rất nhanh sẽ bị lột mất âm [i] và trở thành [Zhu], tức [Chu] tiếng Việt. Viva [Châu] * [Chu].
 
TÓM TẮT
 
Trong bài thứ 3 có vẻ khá khô khan này, chúng tôi đã cố gắng kết thúc một lối minh giải rất sâu rộng, lôi ra hết các thành tố quan trọng và chủ lực, để có thể kết luận:
 
Người Hẹ chính là hậu zuệ của nhóm tộc du mục Bộc Việt, ngày xưa sống cuộc đời nay đây mai đó, bên bờ sông Hoàng Hà, sông Bộc, sông Vị, sông Lạc ở miền cực Bắc nước Tàu. Trước sự đàn áp khủng bố khốc liệt của Hoa chủng, họ lần lượt di tản về những nơi khác. Một khối đi theo tộc Hmong (tức Miêu-Yao) sang miền Triều Tiên trở thành một trong ba đám rợ Tam Hàn. Một nhóm khác lần mò về hướng Nam, đa số chia xẻ địa bàn với chủng Thái-cổ tại nước Sở chung quanh sông Dương Tử và sông Hán. Từ đó, trong hằng trăm hằng ngàn năm, họ tản mác di động khắp miền Hoa Nam. Có một số đông chán ngán cuộc đời du mục nên cùng với chủng Thái-cổ xuống sâu phía Nam rồi cuối cùng định cư ở vùng bình nguyên sông Hồng. Nơi đó đã có những người Môn - Khmer, cùng những chi tộc Thái-cổ khác, đến trước rồi.
 
Xin tóm tắt 9 lối lập luận chính đã dẫn đến kết luận rất quan trọng kể trên, như sau.
 
1. Ngạn ngữ: 'Trên Bộc dưới dâu', phổ biến ở Việt Nam hơn Trung Hoa
2. Địa điểm xuất xứ người Hẹ giống y như đám Đông Yi, trong đó có Bách Bộc, sau này xuống Sở, được gọi Bộc Việt. Đông Di có đám nhuộm răng đen, xâm mình.
3. Bách Bộc là dân du mục. Hẹ cũng vậy. Từ Yue = Việt có cách viết bao gồm 'tẩu', nghĩa 'đi, chạy' + 'cái móc' + 'giáo, mác'. Tức Việt, một danh từ riêng, chỉ có thể mang nghĩa 'Một giống dân du mục sống bằng nghề săn bắn'.
4.  Bách Bộc thuộc đám Đông Yi, y như người Hmong (Miêu). Đám Đông Yi di tản sang Triều Tiên. Người Bách Bộc có đám khác chạy xuống nước Sở, rồi về sau cùng chủng Thái-cổ (Âu) di tản tuốt sang xứ Việt cổ. Ngày nay cả ba thứ người Hẹ, Triều Tiên (Hàn) và Việt, nhất là người Hàn, đều thích món 'mộc tồn'.
5.  So sánh về di truyền, nhân chủng cho biết: Người Hẹ có DNA giống thứ của dân Hoa Nam, chứ không giống Tàu. Diện mạo người Hẹ, với tóc dợn sóng, sóng mũi cao, chiều cao khác với Hoa tộc ở miền Hoa Bắc. Chỉ số sọ người Sơn Đông, tức địa bàn ban đầu của dân du mục Bách Bộc rất giống với chỉ số sọ của dân Việt Nam, và trên chỉ số sọ Hoa tộc đến khoảng 5 đơn vị.
6. Sử Việt thường liên kết dân Việt với thị-tộc Việt Thường, nhóm người rất hiếu hoà đã cử đại sứ đem con chim Trĩ đến biếu vua nhà Châu vào khoảng năm 1120 TCN để làm quen. Địa bàn thị tộc Việt Thường này rất gần với kinh đô nhà Châu ở đất Thiểm Tây. Việc họ tặng con chim Trĩ cho thấy họ là dân du mục sinhsống bằng sănbắn. Người Tàu đầu tiên viết Lạc bộ Trãi dùng mô tả Việt tộc, từ kỉ niệm con chim Trĩ ban đầu đó, bởi chữ Trĩ và Trãi có phát âm y như nhau [zhi] trong tiếng Tàu.
7.  Khi Trần Thủ Độ soán ngôi nhà Trần, hoàng thân quốc thích nhà Lý vội vã đánh con bài 'tẩu'. Họ căng buồm chạy về hướng Sơn-Đông / Triều Tiên, và cho rằng đó chính là nơi chôn nhau cắt rốn của tổ tiên họ, tức Việt tộc (nhóm Lạc).
8.  Tại Quảng Bình, có một nhóm người dân tộc gốc Việt mang tên người Nguồn. 'Nguồn' theo thiển ý, chính là âm lệch đi của 'Ngìn'. Trong tiếng Hẹ, [Ngìn] mang nghĩa 'Người'.
9.  So sánh các tài liệu ngôn ngữ thật sâu rộng trải ra trọn 3 bài đã giúp chúng ta kết luận khá vững chắc người Hẹ chính là người Bách Bộc (cũ), và chính là thành phần nòng cốt của chủng Lạc Việt, đã phối hợp với chủng Âu (tức Thái cổ), tạo dựng tiến hoá nên người Việt Nam, trên nền tảng bản địa sẵn có là Môn-Khmer. Ba thứ từ thông dụng chỉ 'con Chó' có thể tóm tắt được thành phần chủng tộc căn bản của người Việt Nam:
Chó <=> MônKhmer, Má <=> Thái-cổ, và Cầy <=> Việt-cổ (tức Hẹ cổ).
 
Tuy nhiên, vẫn còn một điểm khá gay cấn, thật ra lấn cấn, có thể được các học giả Hoa  xử dụng để phản bác thuyết ở đây. Tức là thuyết lôi kéo rủ rê người Hẹ đi nhậu món mộc tồn, rồi nhìn bà con với người Hàn và người Việt. Đó chính là sự kiện từ xưa đến nay người ta rất ít khi, hoặc chưa hề, tìm được xương sọ thuộc chủng Yueh, tức Bách Việt, ở miền Hoa Bắc (phía Bắc sông Dương Tử)  [1].  Bình Nguyên Lộc đi quanh vấn đề này và cho rằng Việt tộc chỉ mới định cư tại Hoa Bắc chừng 5-10 năm thì bị Hoa chủng do Hiên Viên Hoàng Đế lãnh đạo đánh đuổi chạy hết về miền Hoa Nam, hoặc tuốt sang bán đảo Triều Tiên cùng với người Miêu (Hmong) và nhiều đám rợ khác. Lối giải thích này có vẻ rất gượng ép và mâu thuẫn với nhiều dấu vết cho thấy đám Bách Bộc (Lạc Việt bộ Trãi) vẫn còn tồn tại ở Hoa Bắc vào thời Chiến quốc và mãi về sau.
 
Sự thật theo lí giải chúng tôi, tộc Việt thuở chưa ra khỏi địa bàn Hoa Bắc chắc chắn mang tục chôn cất người chết bằng lối hỏa táng. Người Khương, tức Qiang , hồi xưa có khi Hoa tộc gọi Lạc bộ Khương, chính là tộc người chuyên môn việc hoả táng người chết. Khoảng thời gian cách đây 5000-10000 năm và lùi về trước, người Khương có lẽ là tiền thân, hoặc có bà con rất gần với tộc Thái-cổ (Âu) và tộc Việt-cổ (Lạc). Một trong những hậu duệ của người Khương chính là người Chăm, với tục hỏa táng được rất nhiều người biết đến. Một số tộc người Khương thuần túy vẫn còn tồn tại đến ngày nay tại khu vực Tứ Xuyên bên Tàu.
 
Thuyết về Khương tộc cũng rất nhiều. Có thuyết cho rằng người Khương xuất xứ từ miền Tây nước Tàu, và chính họ cũng đã góp phần với các chủng như Hung Nô, Mông Cổ, Tô-kha-res,... tạo nên Hoa chủng. Có thuyết cho rằng họ là tiền thân hoặc bà con rất gần với hai chủng Âu và Lạc thuộc khối Bách Việt xa xưa. Đặc biệt điểm có thể nhìn nhận văn minh người Khương có vẻ phát triển khá sớm. Từ đó chúng ta sẽ không lấy làm lạ để đặt lên một giả thiết rằng khi văn minh Hoa Hạ chưa nổi lên lấn át các nền văn minh khác, có lẽ văn minh chủ lực tại Hoa Bắc chính là văn minh người Khương. Theo đó tục hỏa táng được rất nhiều tộc du mục ở phía Bắc hâm mộ và bắt chước. Trong những tộc xử dụng lối hỏa táng người chết đó, có đám Bách Bộc, tức Hẹ-cổ, thuộc chủng Yueh. 
 
Ghi Chú
 
[1] Bình Nguyên Lộc (1971) Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam. Nxb Xuân Thu, tái bản tại Hoa Kỳ.
[2] Phạm Quỳnh (1997) Hành trình nhật ký. Ý Việt (France) tái bản. Trong quyển sách này, Phạm Quỳnh đã dùng âm cũ của 'thất' là 'sất'. Ông viết 'sất phu' thay vì 'thất phu'.
[3] Bình Nguyên Lộc trong Quyển Mã Lai [1] cũng đã tổng quát hoá và thu gọn thành 2 đợt di dân đến xứ Việt cổ, cùng một chủng duy nhất Mã Lai, cách đâ 5000 năm và 2500 năm, và hoàn toàn không liên kết với biến động thời Xuân Thu Chiến Quốc bên Tàu. Xuất xứ 2 đợt này, rất lộn xộn. Khi thì từ khu vực Tây Tạng ghé Tàu, lúc thì từ Hoa Bắc, và có lúc lại từ nước Sở. Và tất cả các giống dân Đông Nam Á đều mang cùng một chủng: Mã Lai. Theo thuyết giải mã loạt bài này, di tản từ Hoa lục sang xứ Việt cổ xảy ra từ thời xa xưa, và trải ra rất nhiều đợt. Những đợt đông đảo nhất, xảy ra trong vòng 800 năm trước Công Nguyên. Vào các thời điểm đó, rất khó còn một chủng zuy nhất sống trên một địa bàn rộng lớn như miền Nam sông Dương Tử của nước Tàu ngày nay.
[4] Để ý trong các phương ngữ, từ [vong] tiếng Việt có tương đương với [bong] Mân (Phúc Kiến). Cho thấy âm [V] biến chuyển qua lại với âm [B] giữa các phương ngữ Bai Yue (Bách Việt) như kiểu [vách] với [biak], giữa Việt và Hẹ, hay Bắc bộ và Nam bộ.
[5] Qua các phân tích trong loạt bài 'Từ chữ Nôm...' chúng tôi mạo muội cho rằng 'Hán-Việt' là một từ dùng sai trật nếu với hàm ý rằng tiền nhân ở Việt Nam phát âm chữ Hán theo tiếng 'Hán Việt'. Thí dụ: [Mất] từ xưa tưởng là một từ 'thuần Nôm'. Qua bài này, ta thấy [mất] chính là [mok] hay [mong], hoặc [bong] hay [vong]. [Vong] chính là [wang] Hán quan thoại. Như vậy, có phải chăng tiền nhân thật ra phát âm [wang] tức [vong], như  là [mong] hay [bong] hoặc [mok] rồi biến ra [mất] bởi quốc ngữ. Vấn đề tiền nhân phát âm chữ Hán ra sao, từ trước đến nay chưa hề có một cuộc nghiên cứu sâu rộng nào hết. Do đó chúng tôi có khuynh hướng dùng cụm từ 'Hán-quốc-ngữ' để thay cho 'Hán Việt'.
[6] Âm [By] (phiên âm quốc tế [bj]) theo kiểm chứng với lối đánh vần chữ Nôm (xem 'Từ chữ Nôm đến quốc ngữ') đã chiếm đến 50% của những từ đánh vần bắt đầu bằng chữ 'V': vách, vua, vợ, việc, vui,... Đó là âm [bj] trong từ 'beauty' (đẹp) tiếng Anh, người Mường vẫn còn giữ, khá đúng với cách phát âm thời Nôm. Các tôn sư quốc ngữ, đã gộp tất cả những âm [bj], [w] như: con woi, đi wir, wững wàng, ... (gốc Thái cổ), và [v] (gốc Hẹ) lại thành kí âm bằng một chữ 'V' duy nhất. Âm [bj] vẫn được dùng trong quyển từ điển đầu tiên An-Nam-Bồ-Latin của Alexandre de Rhodes (giữa thế kỉ 17), và ngày nay đối với tiếng Mường. Nhưng theo qui luật kí âm của những vị 'sáng chế' chữ quốc ngữ, âm [y] tức [j]-quốc-tế bị lột khỏi [bj], để trở thành 'B' trong lối đánh vần: ông Bua ([bjua] = vua), bà Bợ ([bjợ] = vợ). Việc gộp 3 âm [bj], [w], [v] thành 'V' duy nhất tạo nên phân cực: phía Bắc đọc [v] theo quốc tế, nhưng phía Nam (nhất là Nam bộ) giữ 'phân nửa' kiểu cũ vẫn đọc [bj]. Ở phía Bắc người Mường và một số người dân tộc hãy còn giữ phát âm [bj] cho một số từ có lối đánh vần tiếng Việt bắt đầu bằng 'V'. Điển hình với việc dẹp bớt âm [j] là chữ 'Bưu' trong 'Bưu Điện'. Âm Nôm của 'Bưu' bắt buộc phải là [Byưu] mới đồng thuận với tất cả phương ngữ bên Tàu: Quan thoại: [You Ju]: bưu cục, với [you] => âm [byau] hay [byưu]. Triều Châu: [yiu kuk], Quảng đông: [Yau kuk], Hải Nam: [Jiu dian] (bjiu điện).
[7] http://www.asiawind.com/hakka/language.htm#compared
http://www.sungwh.freeserve.co.uk/sapienti/cjkvnum.htm
[8] Từ điển Hakka trên mạng: sungwh.freeserve.co.uk/sapienti/hdindexc.htm
[9] Tiếng Anh, động từ 'to lose' (mất, thua) cũng mang nghĩa 'chết'. Nhưng cách dùng hơi khác:
-         A fireman lost his life when he tried to rescue three persons still trapped inside the house: Một người cứu hỏa mất mạng khi ông cố cứu 3 người hãy còn bị kẹt trong nhà.
-         The Enemy: 9 dead; our side, we lost 5. Sau một trận đánh, phe địch tổn thất 9 người, trong khi phe ta mất 5. 
[10] Chỉ số sọ tức cephalic index hay cranial index là tỉ số bề ngang tối đa của sọ trên chiều dài lớn nhất, nhân cho 100. Sọ tròn có chỉ số trên 80. Sọ dài, chỉ số 75-80. Tròn hay dài không ảnh hưởng gì đến thông minh hết. Trước khi người ta tìm ra di-truyền thể DNA, chỉ số sọ rất phổ biến.
[11] Trong chừng 60 năm nay, nhiều giới tại và bên ngoài nước Việt Nam, ưa cổ vũ việc thay thế chữ /D/ bằng /Z/. Nhưng rất tiếc, có vẻ không một nhóm nào có thể biện giải đề ra một căn bản lý thuyết hay lịch sử, cho có 'bài bản'. Cũnggiống như hiệntượng thích biến tiếngViệt thành đa-âm, viết haibatừ dínhliềnnhau. Theo thiển ý vấn đề hết sức phức tạp, bởi tiếng Tháicổ không có âm [Z], còn tiếng của tộc Việtcổ phảnánh qua tiếng Hẹ cũng cho thấy tìnhtrạng phâncực 50:50, phânnửa theo [Z] phânnửa theo [Y]. QuảngĐông và Quanthoại chuyên yùng [Y] cho các âm Việt bắtđầu bằng [D]. Hải Nam, có từ dùng âm nằm giữa [Z] và [Dz], có từ lại dzùng [Y]. Thay /D/ bằng /Z/ trong tiếng Việt lại cũng không chínhxác về ngữ-âm. Bởi âm [D] người phía Bắc phátâm có vẻ là 'âm tắc sát tỏ' [Dz] hơn là kiểu âm sát (nứu) [Z] như theo tiếng Anh: haZard, craZy, Zero. Điểm khó khăn khác: Trong khi có thể kiểm chứng tiền nhân phát âm [V] (tức [W]) hay là [Bj] (bà vợ [bjợ]), qua đánhvần chữ Nôm, kiểmchứng âm [D] rất khó, bởi những từ gốc Hán dzùng 'D' (như: dinhdưỡng) chưa hề và không thể qui về, hoặc đốichiếu riêng với một phươngngữ nào trong tiếng Hoa. Phát âm 'Hán Việt', theo thiển ý, có vẻ lệthuộc vào phátâm quốcngữ, và như sẽ chứng minh trong những bài sau, cũng dựa trên lối phát âm xa xưa, khi người Lạc Việt hãy còn cư ngụ ở miền Hoa Nam.
[12] Randy J. LaPolla (2000) The role of migration and language contact in the development of the Sino-Tibetan language family. IN: Areal Diffusion and Genetic Inheritance: Case Studies in Language Change. Ed. by R.M.W. Dixon & A.Y. Aikhenvald. Oxford University Press
[13] L. Sagart (2001) Gan, Hakka and the formation of Chinese dialects. Centre de Recherches Linguistiques sur l'Asie Orientale. Ecole des Hautes Etudes en Sciences Sociales (UMR 8563 du CNRS), Paris - France.
[14] Thí dụ: Chân = cẳng = giò. Tiếng Việt sau nhiều năm, có vẻ phân biệt ra 'giò' để chỉ thú vật: 'giò heo'. Tiếng Hẹ: [ka] => cẳng, và [giok] => giò. Quảng Đông: [geuk] hay [gok] => cẳng & giò. Quanthoại: Jiao => giò. Ngô-Việt: [Tsa] => chân. Môn-Khờ-Me: [Zâng]=> Chân, hay [Kơng]=> Cẳng.
[15] 'Châu Nhuận Phát' giữ vững họ 'Châu' trong tiếng Việt, y hệt như âm tiếng Quảng Đông. Bởi Châu Nhuận Phát tuy người gốc Hẹ, nhưng tên tuổi vang lên như cồn như một tài tử người HongKong. Và người HongKong phát âm họ của tài tử này bằng: [Zhau].
[16] Trân Châu Cảng = Pearl Harbor, thuộc quần đảo Hạ-Uy-Zi. Nhật dội bom vào căn cứ quân sự Mỹ sáng chủ nhật 7 tháng Chạp 1941, khiến Mỹ quyết liệt tham chiến thế chiến thứ II.

 

Email tạm thời bấm vào đây THƠ-BÀI VIẾT-ÂM NHẠC