Nguyên Nguyên
Trước khi tiếp tục quan
sát và so sánh 2 thứ tiếng Hẹ và Việt, chúng
ta thử nhắc lại những điểm chính dùng để
minh chứng đẳng thức về chủng Lạc Việt (bộ
Trãi):
Lạc Việt (Trãi) = Bách
Bộc (thuộc Đông Yi) = HẸ (cổ)
Những điểm đó gồm có:
1. Người Hẹ xuất xứ từ
khu vực sông Hoàng Hà, chung quanh các sông
Vị, Bộc và Lạc. Nhóm Lạc bộ Trãi thuộc rợ
Đông Yi. Địa bàn chính của đám Đông Yi nằm ở
khu vực tỉnh Sơn Đông ngày nay. Rợ Đông Yi
được biết một thứ rợ có tục nhuộm răng, xâm
mình.
2. Hẹ tức Hakka là một
thứ dân du mục khét tiếng của Trung quốc.
Người Bách Bộc (bao gồm Bộc Việt) cũng vậy.
Chữ 'Việt'
越
dùng trong 'Lạc Việt' (Bộ
Trãi) được viết như miêu tả một nhóm người
du mục sinh sống bằng nghề săn bắn, nay đây
mai đó (bài 8).
3. Bởi là dân du mục sinh
sống bằng săn bắn, người Hẹ cổ trong nhóm
Đông Yi không ngại ăn thịt Cầy, y hệt như
dân Triều Tiên (Hàn) và Việt Nam. Thuở cổ
thời, chính đám Lạc bộ Trãi
貉
đã cùng với người Hmong
di tản sang Triều Tiên, và trở thành một
trong ba đám rợ Tam Hàn. Món thịt Cầy mà
người Lạc du mục thường dùng bữa cách đây
trên dưới 3000 năm, thông thường có lẽ là
con chó rừng tức Sói (bài 8).
4. Tiếng Việt, nhất là
những từ gốc Hán, thường có phát âm gần
giống với tiếng Hán quan thoại hơn tiếng
Quảng Đông. Chúng tôi đưa ra lý giải rằng
một phần thứ tiếng Hán dùng ở cổ Việt
mang ảnh hưởng nhiều của tiếng người Lạc bộ
Trãi. Nhóm người này chính là tộc Yueh sống
gần gũi với Hán tộc nhất trong hằng ngàn
năm.
5. Khi Trần Thủ Độ đưa
Trần Cảnh lên soán ngôi nhà Lý, một số hoàng
thân nhà Lý kéo nhau lên tàu căng buồm chạy
về nơi chôn nhau cắt rốn của tổ tiên ở khu
vực bán đảo Sơn Đông và Triều Tiên. Trùng
hợp với địa bàn xưa của đám Đông Zi, bao gồm
nhóm Lạc Việt (cổ).
6. Một nhóm người dân
tộc thuộc chủng Việt cổ tại khu vực Quảng
Bình tự gọi 'người Nguồn'. 'Nguồn' theo
thiển ý là âm đọc trại từ 'Ngìn' - một từ
người Hẹ-cổ còn giữ đến ngày nay, mang nghĩa
'Người' (bài 7).
7. Chúng ta cũng để ý
đến cách dùng 'Trên Bộc dưới dâu' có vẻ phổ
biến nhiều tại Việt Nam hơn ở bên Tàu. 'Trên
Bộc dưới dâu' là câu nói người Hoa dùng để
chế nhạo dân Lạc Việt thuộc nhóm Đông Yi đã
khá phóng túng trong việc Sex với nhau, trên
bãi sông Bộc và dưới ruộng dâu vào thời Đông
Chu Liệt quốc. Dân Lạc Việt lúc đó sinh sống
rất nhiều ở nước Trịnh và Vệ, thuộc khu vực
Sơn Đông.
8. Lạc Việt (bộ Trãi)
chính là thị tộc Việt Thường lúc đó sống di
động tại khu sông Vị, sông Lạc, sông Bộc, và
Hoàng Hà. Rất gần với kinh đô Kiểu Kinh nhà
Tây Châu. Vào khoảng năm 1100 TCN, thị tộc
Việt Thường có cử 'đại sứ' mang một con chim
Trĩ rất lớn, họ săn được, đến dâng biếu vua
nhà Châu. Có lẽ từ việc này người Hoa mô tả
tộc Lạc Việt bằng chữ Lạc viết kèm với bộ
Trãi. Trong tiếng Hoa 'Trãi' và 'Trĩ' phát
âm [zhi] như nhau. 'Trãi' mang hai nghĩa,
hoặc con sâu không chân (sâu có chân, gọi
'Trùng'), hoặc con thú tưởng tượng giống con
chồn, có sừng trên đầu.
9. Người Hẹ có tóc dợn
sóng, sóng mũi giữa đôi mắt cao hơn Hoa-tộc
một chút. Người Hoa thuần túy tóc thẳng.
Người Hoa Nam (Bách Việt) tóc cũng dợn sóng
như người Hẹ.
10. Theo kết quả đo
lượng về chỉ số sọ [10] đăng trong quyển Mã
Lai [1], chỉ số sọ người Việt bình quân vào
khoảng 82.13, rất gần với chỉ số sọ người
Thái (82.25), người Phi-luật Tân,
Inđô-nêxia, Mã Lai (tổng trung bình: 82.19).
Trong khi chỉ số sọ người Hoa là 78.27. Đặc
biệt người Hoa tại tỉnh Sơn Đông - tức hậu
duệ đám Lạc bộ Trãi và Đông Zi nói chung -
theo đo đạc của Shirokogoroff là 81.70 gần
bằng với chỉ số sọ người Việt hơn là Hoa
tộc. Chỉ số sọ người Hàn cũng vậy: 82.88.
Gần với Việt tộc, qua liên hệ Sơn Đông.
Trích dẫn kết quả chỉ số
sọ trình bày trong quyển Mã Lai của Bình
Nguyên Lộc cũng là một dịp để nhấn mạnh vài
điểm then chốt khác nhau giữa quyển Mã Lai
và thuyết về nguồn gốc Âu Lạc giải mã trong
suốt loạt bài này. Quan trọng nhất, loạt bài
này có lẽ lần đầu tiên đã cố gắng phân biệt
từng tộc khác nhau trong khối Bách Việt ở
Hoa Nam và Bách Bộc tại Hoa Bắc. Đặc biệt
quan tâm đến những tộc đã di tản đến xứ Việt
cổ trong khoảng thiên niên kỷ đầu trước Công
Nguyên. Quyển Mã Lai, ngược lại, tuy có
nhiều đoạn phân biệt các chi chủng khác
nhau, nhưng chung chung lại gộp họ lại với
nhau thành một chủng Mã Lai. Việc làm này,
nhất là qui về MỘT chủng mang tên Mã Lai rất
dễ gây hiểu lầm. Mọi người dễ hiểu lầm người
Mã Lai ngày nay là thủy tổ của khối Bách
Việt. Quyển Mã Lai lại vướng phải một nhầm
lẫn về đám người Hẹ. Trong khi tác giả đã
cho biết tiếng Hẹ rất giống tiếng Việt,
nhưng kết luận lại cho là Hẹ (Hakka) chính
là đám di dân từ xứ Ba Thục cũ (Tứ Xuyên) và
có bà con rất gần, hay hậu duệ, đám dân quân
theo Thục Phán. Quyển Mã Lai, cũng không
tránh khỏi thiếu sót thời đó ở chỗ không
nhấn mạnh thuyết Mã Lai do những ai đầu tiên
đề xướng. Đặc biệt, 'Mã Lai' vẫn không phát
hiện Hùng Vương, nếu có, là một quốc tổ mang
hai dòng máu. Lại cho rằng Hùng Vương chinh
Nam phạt Bắc, có nhiều thuộc địa ở các khu
lân cận [3]. Trái lại thuyết giải mã ở đây
cho rằng có hai tộc chính tràn vào cổ Việt,
trước sau, và cùng một lúc trong vòng 1000
năm trước, và ngay cả sau, Công Nguyên:
Chủng Âu (Thái cổ) và Lạc (Việt cổ). Tại xứ
Việt cổ họ gặp nhiều nhóm thuộc tộc Môn -
Khmer, cũng như các nhóm Thái đã đến đó từ
trước.
Những từ cơ bản của tiếng
Việt ngày nay chỉ đầu mình, tứ chi, môi
miệng, mắt mũi, bộ phận sinh dục, sex, ...
lên đến hơn 60% tổng số từ cơ bản, theo kiểm
chứng chúng tôi, cho thấy có gốc gác là
tiếng của dân bản địa đến trước: Môn-Khmer
[14]. Những từ gọi số đếm, đặc biệt từ 1 đến
10, cũng xuất phát từ tiếng Môn-Khmer. Người
Âu và người Lạc từ phương Bắc đến sau, hợp
chủng với nhau, tạo nên người Việt và tiếng
Việt.
Trong bài này, chúng tôi
sẽ tiếp tục minh giải đẳng thức 'Hẹ chính là
người Lạc Việt cổ (bộ Trãi)' qua việc tiếp
tục quan sát và so sánh một số điểm đặc
trưng của hai thứ tiếng Hẹ và Việt.
Nhắc lại trong hai bài
trước chúng ta đã xem qua 'chúng ta & chúng
tôi' và cặp từ cùng gốc 'Gà Mái' (Việt) và
'Gai Ma' (Hẹ). 'Chúng ta-chúng tôi' cho thấy
người Việt có gốc gác ở miệt cực Bắc của
nước Tàu. Y hệt người Hẹ. Bởi chỉ ở khu vực
này tiếng quan thoại mới phân biệt ra 'chúng
ta' mang ý 'bao gồm' và 'chúng tôi' ngụ ý
'phân cách'. Theo ảnh hưởng của nhóm ngôn
ngữ Altai. Ở 'gàmái' và 'gaima' chúng ta
thấy một số điểm tương tự bao gồm cú pháp,
văn phạm, âm vận, ý nghĩa, và đủ mọi thứ
giữa tiếng Hẹ và Việt.
Bây giờ xin tiếp tục quan
sát:
Chết = Mất
Một điểm đặc trưng khác
đã cho thấy tiếng Hẹ giống y như tiếng Việt,
và người Hẹ (Hakka) mang chủng Bách Yueh chứ
không phải Hoa tộc. Đó là từ miêu tả sự
chết, tiếng Việt còn gọi: 'Mất'.
'Chết' trong tiếng Việt,
có vẻ chỉ gần gũi với âm của từ chỉ 'Chết'
trong tiếng Mân (tức Phúc Kiến). Đó là
[Chi]. Thật ra, tiếng Việt có rất nhiều từ
để chỉ 'chết': Ra đi, thất lộc, từ trần, đi
rồi, tử, xẩy (mạng), thiệt mạng, mất mạng,
ngủm, thành người thiên cổ, táng mạng, vong
mạng, quá vãng, về bên kia thế giới, trở về
với Chúa, về cõi Phật, phiêu diêu nơi miền
cực lạc, về chốn vĩnh hằng, hồn lìa khỏi
xác, đi đời nhà ma, qua đời, tịch, quá cố,
mãn phần, từ bỏ chốn trần tục, tắt thở, trút
hơi thở cuối cùng, vĩnh biệt thế gian, tim
đã ngừng đập, hẹn em kiếp sau, giã từ dương
thế, v.v.
Nhưng chính yếu, và
thường dùng hằng ngày có hai từ: 'chết' và
'mất'. Mất = Chết.
- Tiếng Miến (Myanmar):
chết = [thei-de], có vẻ giống 'thiệt'
(mạng), hay 'thất' (lộc). 'Thất lạc' hay
'mất mát' họ gọi [Baud'te] rất gần với
'mất'. Âm [B] (baud'te) rất giống âm [M]
(mất) bởi cả hai đều là âm môi-môi, các địa
điểm phát âm giống nhau, nhưng một tắc-âm,
[b], một tỵ-âm (âm dùng mũi), [m].
- Tiếng Hải Nam, gọi
'chết' bằng [di] (= si (tử) quan thoại).
[Di] có vẻ bà con gần với 'đi' tiếng Việt:
'đi' hay 'đi luôn' = chết, hoặc 'que' (giống
như 'qua đời', pass away, trong Việt ngữ).
Họ gọi 'đánh mất một vật gì' bằng: 'lak',
giống với 'lạc' trong 'thất lạc'.
- Tiếng Quảng Đông nói
'chết' bằng: [sei] phát âm giống [xẩy], tức
'tử'. Âm rất giống [sei] (tứ) mang nghĩa số
4. Từ đó người Quảng và Hong Kong rất kiêng
kị con số 4. 'Mất' (thất lạc) họ gọi [xat].
Để ý, trước khi quốc ngữ thịnh hành, người
Việt vẫn phát âm 'thất' bằng [xất] hay
[shất] (Xem [2]).
- Tiếng Khmer của 'Chết'
là [slap] và 'mất' (thất lạc, mất mát)=
[bat]. Âm [b] là âm tắc (tỏ) của âm mũi
'm'. Cả hai đều là âm môi-môi, có nhiều động
tác lưỡi, vòm miệng, môi, rất gần giống
nhau.
Đặc biệt, chỉ có tiếng
Hẹ, tiếng Việt và tiếng Mã Lai, nơi này cách
chỗ kia chừng 2 ngàn dặm, có từ diễn tả
'Chết' bằng một âm giống như 'Mất' hay bà
con rất gần với 'Mất':
Chết = Mất (Việt) => Mok
(Hakka) => Mati (Mã Lai).
Như vậy tiếng Hẹ, chúng
ta đã phát hiện, có một từ rất ăn sâu vào
cấu trúc bên trong, mang âm vận rất giống
với một từ tiếng Việt, và cùng gốc với một
từ ở tiếng Mã Lai:
Mất (Việt) <=> Mok
(Hakka)
[Mất] có âm cuối: tắc âm nứu
[t] và [Mok] cũng kết thúc bằng một tắc âm
[k] vòm mềm.
Người Hẹ cũng giống như người
Việt gọi ‘Chết’ bằng ‘Mất’, và 'Mất' cũng có
nghĩa 'đánh mất', 'mất mát' hay 'thất lạc'.
Trong khi ở tiếng Mã Lai 'Mất mát' họ gọi:
'hilang' hoặc 'kalah'. Tiếng Myanmar và
Khmer, tuần tự gọi 'mất mát' [baud'te] và
[bat]. Âm đầu [b] rất gần với [m] của [mất],
và cả hai đều là âm 2-môi, ký âm khác nhau
có thể do ở quốc ngữ.
[Mok] tiếng Hẹ, có nơi gọi
[Mong], viết theo tiếng Hoa:
亡
chính là [wang2] quanthoại, hay
[vong] theo quốcngữ. Chiết Giang (Ngô-Việt)
đọc [vanz] và Phúc Kiến [bong] [4]. [Vong]
quốcngữ cũng mang hai nghĩa: Mất và Chết:
'vong quốc' = mất nước, 'vong mạng'= mất
mạng= chết [9]. Nhưng âm [wang] hay [vong]
lại khác với [Mất] và [Mok].
Tóm lại, 'Mất' trong tiếng
Việt mang hai nghĩa: 'Chết' và 'đánh mất'.
Trong tiếng Hẹ, từ có giống
âm với [mất] là [Mok] cũng hai nghĩa: 'Chết'
và 'đánh mất'.
[Mất] và [Mok] là một cặp tối
đa của hai từ thuộc hai thứ tiếng khác nhau,
mang cùng gốc, có cùng một cấu trúc thật
sâu. Và chỉ có [Mok] và [mất] mới giống nhau
được toàn diện, trong khi đối với các thứ
tiếng khác, [Mất] chỉ giống được một mặt mà
thôi.
Si mê và Xi nê
Trong một bài trước về
'Ảnh hưởng chủng Thái' theo với đẳng thức:
Việt (Nam) = Âu (Thái-cổ)
+ Lạc (Việt-cổ) // Môn Khờ-Me + Nêgritô + Đa
Đảo
tức người Việt Nam là kết
quả hợp chủng và tiến hoá từ 2 chủng chính
Âu (Thái-cổ) và Lạc (Việt-cổ), trên nền tảng
chính Môn-KhờMe, chúng ta đã nhấn mạnh, âm
vận của chủng Thái-cổ tiêu biểu ngày nay
bằng tiếng Quảng Đông, tiếng Thái Lan, và
tiếng Mường, tất cả đều chỉ có âm 'X' (theo
quốc tế: [s]) chứ không có âm 'S' (quốc tế:
[sh]).
Ảnh hưởng tộc Thái-cổ
phản ánh qua tiếng Việt tại những khu vực
người Việt (Kinh) có khuynh hướng phát âm
'X' [s] và 'S' [sh] hoàn toàn bằng [X] hoặc
lẫn lộn qua lại với nhau. Thí dụ: - 'bổ
sung' họ phát âm như 'bổ xung'. - 'Sung
sướng' thành 'Xung xướng'. - 'Si mê'
họ nói 'Xi mê'. - 'sâu sắc' như 'xâu xắc',
v.v.
Bởi người Việt và tiếng
Việt có 2 cội nguồn Âu (Thái)+Lạc (Việt)
trên nền tảng Môn-Khmer (cũng không có âm
'SH') cho nên âm 'SH' (thí dụ: sâu sắc) len
vào tiếng Việt ngày nay, là do ở một số các
tộc Lạc (Việt), đặc biệt Hẹ (Hakka) - ở phía
Đông nước Tàu. Để ý người Chiết Giang, Giang
Tô (tiếng Ngô-Việt) chỉ có âm gần 'S' thôi
chứ không hoàn toàn 'S'. Thí dụ: Tên thành
phố Thượng Hải, người Chiết Giang & Giang Tô
phát âm 'X'an-hei' trong khi quan thoại:
SHanghai. Sau đây chúng ta sẽ xem tiếng Hẹ
ảnh hưởng trên tiếng Việt ở âm 'S' (tức 'SH'
quốc tế) ra sao, và trong đó có âm nào gần
giống tiếng Việt hay không. Từ đó chúng ta
sẽ có thêm một thành tố để qui tiếng Hẹ
(Hakka) về phía cùng gốc tiếng của dân Lạc
bộ Trãi, một gốc nguồn ngôn ngữ của
người Việt Nam.
Bảng ghi chú sau tóm tắt
âm 'x' [s] và 's' [sh] trong các phương ngữ
bà con với tiếng Việt:
Việt
|
Hẹ
|
Mân (P. K)
|
Yue (Q. Đ)
|
Ngô-Việt*
|
Quan thoại
|
Ghi-Chú
|
thiếu (= ít)
|
shau hay xau
|
chio
|
xiu
|
xao
|
shao
|
/sh/ => /Th/
|
sĩ (sĩ phu)
|
xii hay xu
|
xu
|
xi
|
zi
|
shi
|
Mân: âm 'Z'
|
sinh (sống)
|
xang
|
chhenN
|
xaang
|
xang
|
sheng
|
sh: V & QT
|
thạch (đá)
|
shak hay xak
|
chieh
|
sek / daam
|
za
|
shi
|
daam => đá
|
xuyên(sông)
|
chon / tson
|
chhoan
|
xyun
|
ts'uan
|
chuan
|
x: Q. Đ.
|
xấu (sửu)
|
chiu / tsiu
|
chhiu
|
tsau
|
ts'aw
|
chou
|
x (V)= s (H)
|
xuân (mùa)
|
chun / tsun
|
chhun
|
tcheon
|
ts'eng
|
chun
|
X <= ch
|
xưởng (cơ)
|
chong
|
chhiang
|
tchong
|
ts'ang
|
chang
|
X => ch
|
số (con số)
|
xu / xii
|
xiau
|
xou // xok
|
xu
|
shu
|
sh: Q.T.
|
sắc (màu)
|
xet / xek
|
xek
|
xik
|
xak
|
she // xe
|
sh: Q.T.
|
song (đôi)
|
xung / xong
|
xiang
|
xoeng
|
xang
|
shuang
|
sh => QT
|
xã (hội)
|
xa / sha
|
xia
|
xe
|
zoe
|
she
|
sh: Hẹ & QT
|
xà (rắn)
|
sha
|
choa
|
xe
|
zoe
|
she
|
sh: Hẹ & QT
|
* Ngô Việt là phương ngữ
Chiết Giang-Giang Tô-Thượng Hải nói chung.
Địa bàn của nước Việt của Câu Tiễn- Tây Thi
và Ngô của Phù Sai - Hạp Lư.
* Mân: phương ngữ của dân
Mân Việt tức Phúc Kiến (P.K.), Triều Châu.
* Yue, tức Việt (chủng
Âu) gồm hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây.
** Dấu / có nghĩa: 'hay
là'
Bảng đối chiếu âm 'X' và
'S' ở trên có thể đưa đến những nhận xét
sau:
(a) Như trong loạt bài
'Từ chữ Nôm đến quốc ngữ', chúng ta thấy
phân biệt âm 'X' và 'S' trong tiếng Việt có
vẻ bất chợt, chứ chung chung, không theo sát
với biến chuyển giữa 'X' và 'S' (tức [SH]
theo ký âm quốc tế), giữa các phương ngữ
Trung Hoa, nhất là quan thoại.
(b) Phân biệt 'X' và 'S'
trong tiếng Việt, có lẽ do các tôn sư quốc
ngữ đặt ra để giải toả bớt cảnh đồng âm dị
nghĩa trong tiếng Việt. Thí dụ: 'xướng ca'
phân biệt với: 'sung sướng'. 'Xá' (tha tội,
qt: [she]) phân biệt 'sá gì', 'sá chi',....
Điển hình, từ 'Hán quốc ngữ' 'sửu' mang
nghĩa 'xấu', nhưng thật ra 'sửu' chỉ hợp với
âm gần giống [chou] của quan thoại mà thôi.
Đối với các phương ngữ khác, 'sửu' phát âm
gần 'xửu' hơn.
(c) Đặc biệt trong số
các tộc Yueh (Việt), chỉ có tiếng Hẹ chứa âm
[sh], góp phần vào hình thành tiếng Việt
(Nôm), mang âm [sh] như 'sâu sắc'. Quảng
Đông tuyệt nhiên không có âm [sh] bởi họ có
gốc Yueh chi Âu, tức Thái-cổ. Tiếng Thái Lan
và Mường cũng không có âm [sh] và chỉ có [x]
mà thôi.
(d) Tiếng Mân (Phúc
Kiến) có âm gần gũi [sh] và xa [x] hơn, là
[ch] hay [chh] (phiên âm quốc tế /tsh/).
(e) Tiếng Ngô-Việt
(Thượng Hải) chỉ có âm [ts] hay [x] chứ
không có âm hoàn toàn [sh].
(f) Âm 'X' tiếng Việt
không nhất thiết biến chuyển thẳng từ âm 'X'
của quan thoại hay của Hẹ. Ngược lại, âm
'SH' của quan thoại hay của Hẹ không nhất
thiết biến thành âm 'SH' (tức 'S') của tiếng
Việt. Thí dụ: Xã hội <= she hui (qt), sha
hoi (Hẹ). Xà (rắn) <= she (qt), sha (Hẹ).
Thí dụ khác: Sĩ (V) <= SHi (QT) & Xii (Hẹ).
(g) Đặc biệt, từ chỉ
'sông' tiếng Hẹ phát âm như [tson] rất gần
với [sông] Việt, và mang cùng gốc với
[sungai] tiếng Mã Lai. Một lần nữa [sh]
tiếng Việt tương ứng [x] Hẹ và Mã Lai. Quan
thoại đọc 'Chuan' nhưng các tôn sư quốc ngữ
ký âm là 'Xuyên'. Một chuyện rất ngộ nghĩnh:
'Sông' là một từ Nôm kiểu Hẹ và Mã Lai.
Tiếng Hán bắt chước gọi 'chuan'
川.
Các tôn sư quốc ngữ ký âm trở ra thành
'xuyên', và người Việt xưa nay lầm tưởng đó
là một từ thuần Hán, và gọi đó từ Hán-Việt
của 'sông'. Thật ra 'xuyên' là một phiên âm
chạy một cái vòng lớn của 'sông'. Y hệt như
'tửu' cho 'tjiu' hay 'jiu' hay 'rượu'
('jựợu'). 'Jau' hay 'jiu' hoặc 'yiu' cho
'giàu' và 'nhiêu'. 'Sửu', dùng /s/ thay cho
/x/, đáng lẽ viết 'xửu' hay 'xẩu', tức 'xấu'
(như âm [tsau] quảng đông) - chứ thật ra
'sửu' không phải là từ Hán Việt của 'xấu'.
'Xấu' tự nó là một từ gốc 'Hán', có lẽ Hán
Hoa Nam, tức Bách Việt, chứ không phải thuần
Nôm. Y hệt với [mất] xuất xứ từ [mok] của
Hakka, như bàn phía trên.
(h) Đặc biệt nhất, so
sánh với toàn thể các phương ngữ, tiếng Hẹ
mang âm gần giống tiếng Việt nhất trong bảng
đối chiếu ở trên: sĩ= xii; sinh= sanh= xang;
thạch= shak; xuyên= sông= tson; xuân= tsun;
xưởng (hãng)= chong; số= xu; sắc= xek; xấu
(sửu)= tsiu//chiu; song= xong; xã= xa; xà=
sha. Tổng cộng 12 từ trong số 13 từ. Từ còn
lại ('thiếu') có thể nằm luôn vào danh sách
đó nếu nhớ lại luật biến chuyển âm vận giữa
âm 'au' và 'iu' giữa các phương ngữ tiếng
Hoa. Đó là 'thiếu' => 'thau'
=> shau. Y hệt như: Andy Lau
=> Liu De Hua (Lau => Liu (Lưu), Liu
Đức Hoa); cầu => kiều; Nam Chiếu
=> Nan-Zhao, như đã trình bày
trong bài 3 của loạt bài 'Từ chữ Nôm đến
quốc ngữ'.
(i) So sánh 13 từ này
giữa tiếng Việt và Hẹ, và tạm vay mượn ý
niệm 'cặp tối thiểu của 1 sinh ngữ' (như:
pear (lê) & bear (con gấu), shop (tiệm) &
chop (chặt)), chúng tôi mạo muội xếp chúng
vào 13 'cặp tối đa giữa 2 ngôn ngữ'
Việt và Hẹ. 'Cặp tối đa', như: tson (Hẹ) &
sông (Việt), xà (Việt) & Sha (Hẹ), v.v.
chính là những cặp từ lấy từ hai thứ tiếng
khác nhau, giống nhau tối đa, chỉ trừ chừng
một âm, và mang cùng một nghĩa y hệt nhau.
Khác biệt chút ít đó có lẽ do ở quá trình
hằng ngàn năm cọ xát với các ngôn ngữ chung
quanh, tại hai môi trường khác biệt, ở pên
Tàu và bên Việt Nam, cũng như do ở sự biến
đổi âm vận do ở ký âm dùng a-b-c khi tạo
dựng chữ quốc ngữ.
Tóm tắt, tiếng Việt mang
thêm âm chữ 'S' (tức [SH] quốc tế) do ở hiện
diện của người Hakka (Hẹ) tại xứ Việt cổ, có
lẽ cùng lúc với chủng Thái-cổ. Tiếng Hẹ
trước đó mang ảnh hưởng âm [sh] từ phát âm
'quan thoại' của tộc Hoa sống gần gũi tại
lưu vực sông Hoàng Hà. Đóng góp [SH] vào
tiếng Việt là đóng góp bổ xung cho âm [X]
độc nhất của tộc Thái-cổ. Ngoài đóng góp âm,
chúng ta thấy tiếng Hẹ có nhiều từ dễ dàng
tạo nên những 'cặp tối đa' với những từ
tương ứng trong tiếng Việt.
Tường và Vách
'Tường' và 'vách', một lần
nữa, sẽ cho thấy lối kí âm đánh một vòng
tròn lớn của thứ tiếng các bậc tiền bối
thường gọi: tiếng 'Hán-Việt' [5]. Chung qui
cũng do ở thiếu thốn phương tiện kiểm chứng
với các phương ngữ tiếng Hán, đặc biệt tiếng
Hẹ.
Tiếng Hán Việt của 'Vách'
là 'Bích', và chúng ta sẽ thấy y như 'nhiêu=
giàu', 'tửu= rượu', 'xửu= xấu', 'bích' thật
ra chính là lối phát âm gần đúng của 'biách'
tức 'vách'. Chứ không phải Hán Việt gì hết.
Tiếng Tàu thường có 2 từ khác
nhau để chỉ WALL tiếng Anh: qiang
墻
(tường),
và bi
壁
(bích).
Thông thường họ gọi chung 2 từ với nhau:
'qiang bi' => tường bích.
Người Hải Nam phát âm:
'xio' cho 'qiang' và 'biá' cho 'bi'. Thượng
Hải: 'Chiang bei'.
Gạt 'tường' sang một bên,
chúng ta nhớ người Nam Bộ phát âm 'Vách' như
[Byách].
Thế ở thời Nôm na, người
Việt phát âm 'Vách' ra sao? Từ điển chữ Nôm
của Vũ Văn Kính ghi có 3 lối phát âm tùy
theo cách viết:
-
Cách 1: Vay mượn 'Bích',
tức [Bi] của Tàu:
壁
-
Cách 2: Biến đổi chút ít bằng
cách kẹp chữ 'Thổ' ([tu]
土)
đằng trước 'bích':
土壁
tạo
thành một từ 'thuần Nôm',
gợi lên ý làm bằng đất: nhà tranh vách
(byák) đất.
- Cách 3: Giống cách 2, nhưng
viết 'Bích' trước rồi kẹp với chữ 'Phí'
([fei]
費
= lệ phí, phí
tổn),
壁費
có vẻ mang hàm ý cái thứ
vách tường thật kiên cố, rất tốn kém.
Cả ba cách đánh vần chữ
Nôm đều xử dụng âm đầu [B] của âm 'Bích'
([Bí] hay [Bik] tiếng Hán). Như vậy, ở thời
chữ Nôm chưa có quốc ngữ, người nước Nam
phát âm 'Vách' dựa trên âm 'B': 'Byách'. Y
như kiểu người Nam bộ và người Mường [6].
Thế tiếng Hẹ của 'Vách'
là gì? Họ phát âm [Byak] (xem: [7] & [8]).
Giống kiểu Nam bộ, chứ không giống âm chữ
'V' của quốc ngữ.
Tức một số điểm khá ngộ
nghĩnh đã được phát hiện:
- 'Vách' xưa nay tưởng
thuần Nôm, thật ra là một từ mang gốc chủng
Yueh từ hồi còn ở pên Tàu, được các tôn sư
quốc ngữ biến thể từ âm nguyên thủy: [biák].
- 'Bích' xưa nay tưởng
từ Hán Việt, lại chính là lối phát âm Nôm-Hẹ
và Nôm-na nguyên thủy ở thời chưa có quốc
ngữ. 'Bí'
壁
có lẽ là một từ chủng Hoa
đã vay mượn từ chủng Yueh. Vay từ [Biak]
hay [Bjách] mà các tôn sư quốc ngữ viết lại
thành: 'Vách'.
Tiếng Hẹ lại chia xẻ cùng
với tiếng Việt thêm một cặp tối đa nữa,
'vách & biak', ăn thật sâu vào cấu trúc ngôn
ngữ thời xa xưa.
Cặp tối đa
'Cặp tối đa giữa hai ngôn
ngữ' là một ý niệm ngoại suy từ 'cặp tối
thiểu của một ngôn ngữ' tạm đề ra để minh
giải sự giống nhau như hai giọt nước của một
số từ tiếng Hẹ và tiếng Việt. Đặc biệt có
nhiều cặp tối đa có cấu trúc ăn thật sâu vào
văn hoá của người Hẹ và người Việt như đã
trình bày phía trên.
Tóm tắt, chúng ta thấy 2
điểm tương phản nhưng lại đồng thuận với giả
thuyết ở đây:
- Người Hẹ và tiếng Hẹ
có những đặc tính cho biết họ từng sống gần
gũi với người Hán tộc, xuất xứ từ miền cực
Bắc nước Tàu, nhưng:
- Người Hẹ và tiếng Hẹ
lại có những đặc tính khác cho thấy họ không
thuộc Hoa tộc mà lại có bà con rất gần với
nhóm Bai Yueh (Bách Việt) ở Hoa Nam xưa, và
nhất là với tộc Việt của người Việt Nam.
Sau đây chúng ta sẽ sưu
tầm thêm những cặp tối đa tiêu biểu giữa
tiếng Hẹ và Việt.
Tiếng Việt
|
Tiếng Hẹ
|
Ngôn ngữ khác #
|
GHI CHÚ
|
bò (ngưu)
|
ngiu
|
ngâu (QĐ)
|
mưa ngâu (Ngưu
lang Chức nữ). *
|
dạ
|
za // ya **
|
shi
|
Dạ = vâng. Hẹ có
âm [z]
|
dùng (use)
|
zung // yung **
|
yong
|
Hẹ có âm [z] =>
[Dz] phát âm Bắc
|
chiếm
|
chim
|
zhan
|
xâm chiếm
|
muỗi (con)
|
mun
|
wenzi (QT), Muh
(Kh), nyaMuk (Mã Lai)
|
Muỗi (V) gần Hẹ,
Khmer, Mã Lai hơn quan thoại.
|
hưu (nghỉ)
|
hiu // hieu
|
hiu (Pk) jau (Qđ)
xiu (Qt)
|
[hưu] gần Hẹ nhất
|
gả
|
ga
|
jia
|
dựng vợ gả chồng.
Hẹ y hệt Việt
|
gắp
|
gap
|
gap (QĐ)
|
gắp = dùng đũa
gắp đồ ăn. Gần Hẹ.
|
hả
|
ha
|
hor (QĐ)
|
what? = hả. Anh
đó hả?
|
kết (thúc)
|
ged // ked
|
jie shu
|
Việt= Hẹ. [g]=
[k] // [d]= [t] tắc âm
|
kiều (cầu)
|
kiao
|
qiao
|
Hẹ có âm [K].
Quan thoại không có.
|
nghiêm (túc)
|
ngiam
|
yian
|
để ý Hẹ có âm đầu
/ng/ và cuối /m/
|
phổi
|
fui
|
fei
|
Hẹ phát âm [pui]=
[fui] cho 'phổi'
|
phạm (tội)
|
fam
|
fan zui
|
để ý tiếng Hẹ có
phụ âm cuối 'm'
|
quạ (chim quạ)
|
vu-a
|
wu ya
|
[vu-a]=> quạ. Hẹ
có âm [V] thay [W]
|
giếng
|
jiang
|
zing (Qđ) jing
|
Việt = Hẹ > Qđ &
Qt
|
ngông (ngu)
|
ngong / ngo
|
ngong / ngoh (QĐ)
|
Thái cũng giống:
[ngo]. Hẹ có [NG]
|
hùng (dũng)
|
hiung
|
iong (Pk) xiong
|
Hẹ[H] như Việt,
tương ứng [X] QT
|
lạnh
|
lang
|
leng
|
âm [L] Hẹ, không
phân biệt âm [N]
|
Nam (south)
|
Lam
|
Nan
|
Hẹ có âm cuối
/M/. QT không có
|
mong (hy vọng)
|
mong
|
xi wang
|
wang => vọng
|
buá (phủ)
|
bu
|
fu
|
(hammer). Búa (V)
= Bu (H) > QT
|
gặp (kiến)
|
kian
|
hian (Pk) jian
|
[k] V = [k] Hẹ,
âm không hơi thở
|
sát (giết)
|
xad
|
sha
|
Âm [d] cuối Hẹ
rất giống [t] Việt
|
bạt (bộp tay)
|
pok // pak
|
p'a (NV) phah
(Pk) pai
|
bạt tay => tiếng
gốc Hẹ & Hoa Nam
|
lũy (đồn lũy)
|
lui
|
lui (Pk) leoi
(Qđ) lei
|
Việt = Hẹ = Phúc
Kiến (Pk)
|
vãn (kết)
|
van
|
oan (Pk) wan
|
[v] Việt= [v] Hẹ,
tương đương [w] Qt
|
kiện (tụng)
|
kien
|
kian (Pk) gin
(Qđ) jian
|
[k] Hẹ = [k]
Việt. QT dùng âm [j]
|
khoa học
|
khox hok
|
ke xue
|
Hẹ có âm [KH].
/K/ QT có hơi thở
|
có thể
|
kon theux
|
ke yi
|
Hẹ [k] giống âm
[c] trong 'có'
|
học sinh (sanh)
|
hok xang// xien
|
hok xaang(Qđ) xue
sheng
|
Âm [sh] V = âm
[sh] QT
|
CHÚ THÍCH:
# Pk = Phúc Kiến; Qđ =
Quảng Đông; NV = Ngô Việt (Chiết Giang,
Giang Tô, Thượng Hải)
# Kh = Khmer
# Âm Quan thoại (Phổ
thông) không có dấu ngoặc.
** Để ý tất cả âm bắt đầu
bằng /Y/ quan thoại, khi chuyển sang Hẹ phân
cực thành 2 âm /y/ và /z/
Từ bảng đối chiếu các cặp
tối đa những từ tiếng Việt và Hẹ ở trên,
chúng ta có thể thấy:
1. Tiếng Việt và tiếng
Hẹ rất giống nhau. Sở dĩ tiếng Hẹ còn giữ
được nhiều nét giống tiếng Việt hơn hầu hết
các thứ phương ngữ Bách Việt khác là do ở
tính ít chịu hội nhập của người Hẹ với người
Hán, cũng như những tộc người chung quanh,
như người Hmong, Yao, Quảng Đông, Hồ Nam,
v.v. Người Hẹ vẫn thường được gọi một thứ Do
Thái của Trung Hoa.
2. Tiếng Hẹ có rất nhiều
âm giống với các phương ngữ tộc Yueh, chứ
không giống tiếng Hán quan thoại ở phía Bắc.
Đặc biệt:
(a) Cũng giống như
tiếng Việt, tiếng Thái, tiếng Quảng, Hẹ và
các phương ngữ gốc Yueh (Âu và Lạc) còn giữ
âm [NG] - trong khi Hán quan thoại không có.
Thí dụ: [ngiu] = [ngâu] =
ngưu = bò; [ngiam] = nghiêm; [ngo] = ngu,
ngố
(b) Âm [g] tiếng Việt
và Hẹ, tương ứng với âm [j] quan thoại.
Thí dụ: [gai] = [ji] =
gà; [ga] = gả (gả chồng) = [jia] qt.
(c) Như tất cả các
phương ngữ tiếng Hán, Hakka không có nhị-âm
cuối theo dạng [ay] hay [uy] như tiếng Việt.
Điểm này cho thấy ảnh hưởng quan trọng của
hạ tầng Môn-Khmer. Một thứ tiếng có âm cuối
theo dạng [uy] [ay]: [camay]: cái / mái;
[Malay]: Mã Lai; [licay]: đàn ông, chồng;
[nei]: nầy. Theo trích dẫn trong bảng phía
trên: 'Đồn lũy' mang âm cuối [uy] có tương
đương âm Hakka [Lui], không phải [uy].
(d) Hakka cũng có âm
đầu [h] y như tiếng Việt, trong khi tương
đương trong quanthoại là âm [X]: hùng=>
hiong (Hẹ)=> xiong (qt); học sanh=> hok xang
(Hẹ)=> xue sheng (qt); hưu=> hiu (Hẹ)=> xiu
(qt).
(e) Hakka có âm đầu
[K] không-hơi-thở y như tiếng Việt. Quan
thoại không có, mà chỉ có [k]-hơi-thở, thông
thường viết theo Việt quốc ngữ phải kèm [h]
thành => [Kh]. Thí dụ: kiều (cầu)=> kiao
(Hẹ)=> qiao (qt); kết=> ked (Hẹ)=> jie (qt);
kiện=> kian (Hẹ)=> jian (qt). KHoa học=>
KHox hok (Hẹ)=> Ke xue (qt) {để ý [K]-qt có
hơi thở}; khẩu (miệng)=> khieu (Hẹ)=> Khau
(Pk)=> Kou (qt). {[kh] Việt= [kh] Hẹ = [k]
qt}
(f) Từ 'búa' một lần
nữa cho thấy tính bất chợt của tiếng
Hán-quốc-ngữ. 'Búa' thường xem một từ thuần
Nôm, nhưng thật ra thuần ...Hẹ. Tiếng Hẹ là
[Bu] rất giống 'Búa', trong khi Hán Việt gọi
[phủ] bắt chước quan thoại [Fu].
(g) Tiếng Hẹ cũng mang
một 'tật' chung của các phương ngữ miền Hoa
Nam, trong việc thiếu phân biệt giữa tử âm
[L] và [N]. Trong tiếng Việt, cũng có nhiều
khu vực y hệt như vậy: - Anh nàm gì thế?
Thay vì: - Anh làm gì thế? theo kí âm
của quốc ngữ. Thật sự theo thiển ý, đã từng
trình bày nhiều lần trước đây, phân biệt âm
[L] và [N] hoàn toàn không cần thể hiện
trong môi trường Nôm, hoặc Hán, không dựa
trên thứ chữ cái a-b-c. Cả hai (l và n) đều
là âm nứu, một biên (l) một mũi (n), có cách
phát âm lưỡi va chạm vào nứu ở những vị trí
rất giống nhau. Ở bảng trên, ta thấy (hướng)
'Nam' người Hẹ có thể thoải mái đọc [Lam], y
như người Quảng Đông. Để ý âm cuối 'Nam /
Lam' là [m] trong khi quan thoại chỉ toàn
[n]=> [Nan].
Toàn bộ âm cuối {p t k
m n ng nh}
Bảng so sánh phía trên
cũng cho thấy phần nào tiếng Hẹ giữ vững
toàn bộ âm cuối p, t, k, m, n, và ng, y hệt
như tiếng Việt. Trong khi Quan thoại chỉ có
hai âm cuối /n/ và /ng/.
Xin xem thêm chi tiết về
âm cuối qua bảng so sánh sau:
âm cuối
|
Việt
|
Hẹ
|
QuảngĐông
|
Quanthoại
|
Mân (PK)
|
Ghi Chú
|
p
|
thiếp
|
ziap
|
tsip
|
gie
|
chhiap
|
qt không p
|
p
|
pháp
|
fap
|
fat
|
fa
|
hoat
|
p => p
|
t
|
luật
|
lut
|
leot
|
lu
|
lut
|
qt không t
|
t
|
thất
|
sik
|
sat
|
shi
|
gek
|
t => k (Hẹ)
|
k
|
thạch
|
sak
|
sek
|
shi
|
chieh
|
k <=> k
|
k
|
ngọc
|
ngiuk
|
yuk
|
yu
|
gek
|
k <=> k
|
k
|
bích (vách)
|
biak
|
bek
|
bi
|
piah
|
qt không k
|
k
|
mực
|
met
|
mak
|
mo
|
bak
|
k => t (Hẹ)
|
m
|
chìm
|
chim
|
zam (zhầm)
|
zhen
|
sim
|
qt không m
|
n
|
kiến (gặp)
|
kian
|
jin
|
jian
|
hian
|
qt có 'n'
|
ng
|
hướng
|
hiong
|
hoeng
|
xiang
|
hiong
|
qt có 'ng'
|
Bảng so sánh trên cho
thấy tiếng Việt và Hẹ có chung tất cả âm
cuối {p t k m n ng} như các phương ngữ
Hoa Nam, trong khi quan thoại chỉ có 2 âm
cuối {n ng}.
Tiếng Việt còn có thêm âm
cuối {nh} như trong: lanh tanh,
nhanh, canh, nhánh,
v.v. Theo thiển ý do ở ngôn ngữ hạ tầng và
bản địa của nhóm Môn Khmer (thí dụ: inh-jut=
nặng nhọc; inh-tsơng= thon thả). Theo trang
web [7], một số chi bộ tiếng Hẹ vẫn còn giữ
âm đầu [ny] tức [nh] y như tiếng Việt: nhanh
nhẹn, nhăn nhó như khỉ, nhằm nhò, ... Cũng
giống tiếng Môn-Khmer: [nyai] => nhai;
[nyou]=> màu nâu (tiếng Việt lột mất âm
[y]); [Nyunt]=> phát âm kiểu Việt: [Nhunt],
tên một họ Miến Điện (Myanmar).
Phân cực phát âm từ bên
Tàu
Trước khi kết thúc ba bài
về người Hakka, chúng ta hãy lướt qua vài
lối phân cực trong cách phát âm một số chữ
hoặc từ trong tiếng Việt. Đề tài này thật ra
rất rộng, đã được phân tích nhiều trong loạt
bài 'Từ chữ Nôm đến quốc ngữ', và ở đây xin
liên kết với phân cực tương tự trong tiếng
Hẹ.
Tóm tắt các thứ phân cực
như giữa âm [V] & [Bj], [Y] & [Dz], các từ
[Chu] & [Châu], v.v., đều có đồng bệnh giữa
các phương ngữ tiếng Hoa với nhau. Các tôn
sư quốc ngữ, có thể vì một số lí do nào đó,
đã khuyến khích duy trì các phân cực này,
trong việc truyền bá chữ quốc ngữ cho người
nước Nam vào thuở ban đầu.
1. Âm [V] & [Bj]
Người Việt phía Bắc phát
âm những từ như: về, vợ, vui, voi, văn, vững
vàng, vách, ... hoàn toàn theo âm [V] của
quốc tế như Vérité (Pháp) hoặc Verification
(Anh). Người phía Nam phát âm [V] như kiểu
phiên âm quốc tế [Bj] (hoặc chữ cái Hi-Lạp
'beta') - đọc ra như âm [By]: byề, byợ,
byui, byoi, byăn, byững byàng, biách, ...
Hãy xem 'Vân Nam' và
'Lĩnh vực'.
Vân Nam: Quảng Đông đọc
'Wen Lam' - Quan thoại, 'Yun-Nan': Phân cực
âm [W] và [Y]
Lĩnh Vực: Quảng Đông phát
âm 'Ling Wiq', trong khi Quan thoại, 'Ling
Yu'. [W] & [Y].
Phát âm chữ V theo kiểu
[Bj], như 'Beauty [Bju:ti]' Anh ngữ, hiện
vẫn còn giữ trong nhiều từ thuộc tiếng
Mường. Thí dụ: Bua [bjua] => Vua; Biết
[bjiết] => Viết;
Bải [bjải] => Vái, v.v..
Theo một vài lí do kĩ thuật của ngành ngữ
học, khi kí âm sang dạng a-b-c các tôn sư
đều lột bỏ âm thứ 2 của [Bj] và chỉ giữ lại
[B]: ông Bua = ông Vua.
Âm [Bj] cũng đã hiện diện
trong tiếng bản địa xưa nhất: Môn Khmer, và
còn tồn tại đến ngày nay trong các tiếng
Myanmar và Khmer. Thí dụ:
- Myanmar (Miến Điện):
byaun-de = đổi xe (vận chuyển), bya-de = màu
xanh
- Khmer (Cam-Bốt): biak =
chữ (word); raw-biang= hành-lang
Ở phần trên chúng ta cũng
đã thấy phát âm [Byách] Nam Bộ của từ 'Vách'
giống y như phát âm của người Hẹ, và gần với
gốc [Bi] quan thoại, và [Bích] Hán đọc theo
quốc ngữ, hơn 'vách' rất nhiều.
Tra cứu những trang web
viết về ngôn ngữ Hẹ cũng cho thấy tiếng Hẹ
và một số phương ngữ gốc Lạc Việt, đặc biệt
Ngô-Việt (tức Chiết Giang - Giang Tô), hiên
vẫn giữ âm [V].
Thí dụ: con 'quạ' tiếng
Hẹ có phát âm theo chữ [V] => Vu-a. Trong
khi quan thoại và quảng đông (gốc Thái-cổ)
không có âm [V]. Chỉ có âm [W]: Quan thoại:
[Wu-ya] = con quạ. Tiếng Mường, hoặc Việt
cổ: con Way => con Voi. Một Vạn, tức 10000,
có âm y hệt trong tiếng Hẹ: [Van].
Trong phương tiện ngày
nay, người ta có thể phân loại trở lại, từ
nào hồi xưa, có khuynh hướng phát âm theo
[V] (Việt-cổ) (Van (Hẹ)= vãn (V)= kết), hay
[W] (Thái-cổ) (con Woi), từ nào có khuynh
hướng phát âm như [Y] hay [Bj], cho cả hai
chủng Việt và Thái-cổ (ông Bjua= vua; bjách
tường= vách). Bằng cách đối chiếu với các
thứ tiếng của người dân tộc và quan trọng
hơn hết, tra cứu lối đánh vần trong chữ Nôm
như trình bày ở trên.
Tóm lại, qua [biák =
vách] và [van = vạn = 10000] chúng ta thấy
tiếng Hẹ rất giống tiếng Việt, ngay trong
phân cực giữa [Bj] và [V] (hay [W]).
2. Âm [Y] và [Dz]
Phân cực giữa âm [Y] và
[Dz] đã được phân tích rất tỉ mỉ trong các
bài 'Từ chữ Nôm...'. Từ điển người Hẹ ([7] &
[8]) cho thấy người Hẹ cũng phân cực y hệt
như vậy.
Nhắc lại ở Bắc bộ, phát
âm những từ Việt ngữ bắt đầu bằng chữ 'D'
như:
dạ (đêm), diệp (lá ),
diều, dầu, dược, dương (dê), dụng (dùng),
...hoàn toàn theo âm [dz]:
dzạ, dziệp, dziều, dzầu,
dzược, dzương, dzụng, ...
Và cũng có nhóm (Nam bộ)
đọc tất cả theo âm [Y] (quốc tế: [J]):
Yạ, yiệp, yiều, yầu,
yược, yương, yụng,...
Quan thoại và Quảng Đông
không phân biệt giữa [Y] và [Z] hay [Dz].
Chỉ có âm [Y], thỉnh thoảng biến âm với [W]:
Wân= vân= mây => Yun (qt). HẸ: Yun, giống
Quanthoại.
Nhưng đặc biệt Hẹ phân
cực [Y] và [Dz] (kí âm [Z] hay [J] trong từ
điển), y kiểu Việt:
Có nhóm phát âm theo [Y],
y như kiểu Nam bộ:
Ya, yab, yao, yiu, yok,
yong, yung,...
Và có nhóm toàn theo âm
[Z], y như kiểu Bắc bộ (11):
Za, zab, zao, ziu, zok,
zong, zung,...
Tức người Hẹ cũng có phân
cực trong lối phát âm giữa [Y] và [Dz] y hệt
như người Việt cho phần lớn các âm quan
thoại và quảng đông, bắt đầu bằng [Y]: dung,
dũng, dị, v.v.
3. Châu
Nhuận Phát và Đông Chu Liệt Quốc.
Trong bài 'Từ chữ Nôm' chúng
tôi đưa ra giả thuyết sở dĩ có sự phân cực
'Chu & Châu' là do ở phía Nam ưa kị húy Chúa
Nguyễn Phúc Chu với tên riêng 'CHU' nên đã
đổi tất cả những từ phát âm 'Chu' thành
'Châu'. Tra cứu bất cứ quyển từ điển tiếng
Hán nào, chúng ta thoạt tiên sẽ thấy có vẻ
như có sự lầm lẫn đâu đó của tiền nhân, bởi
lí do: Những từ pinyin (quanthoại) ghi
[zhou] tức [châu]
周,
phía Việt ngữ thường biến thành 'Chu':
Zhou (Châu)
周
= tuần lễ, tuần hoàn.
Zhou ji (Châu kỳ)=> Chu kỳ (period, cycle);
Zhou nian (Châu niên)=> Chu niên; Zhou Wei
(Châu Vi)= Chu vi; Zhou You = Chu du; Zhou
En Lai = Chu Ân Lai, đáng lí Châu Ân Lai,
Đông Chu đáng lý Đông Châu [15], v.v..
Những từ người Hoa gọi là
[Zhu] (Chu)
珠,
người Việt cũng gọi 'Chu', như 'chu hồng'
(màu đỏ thắm)
朱
và đôi khi cũng gọi 'Châu':
Zhu
珠=
ngọc trai => Zhu Bau => Chu báu, hay 'Châu
báu';
Họ ZHU: Zhu Yuan
Zhang => Chu Nguyên Chương (rất
đúng);
Zhu
Rong Ji => Chu Dung Cơ. NHƯNG:
Zhen Zhu Gang =>
Trân Châu Cảng, đáng lẽ phải Trân
Chu Cảng. Nhưng bởi 'Trân Châu Cảng'
[16] được Việt-hoá trước tiên từ triều đình
ở Huế hoặc tại phía Nam, nên 'Trân Châu
Cảng' (dùng 'Châu') được dùng luôn từ đó đến
nay. Ngoài ra 'Chu' cũng ưa biến thành
'Châu' ngay tại phía Bắc, trong tên riêng:
Bích Châu, Hồng Châu, Ngọc Châu, v.v.
Hoa: ZHOU (Châu)
周=>
Việt: CHU. Hoa: ZHU (Chu)
珠=>
Việt: CHU / CHÂU
Tiền nhân học tiếng Tàu
không đến nơi đến chốn hay chăng? Hay vì ở
phía Bắc toàn là thần dân chúa Trịnh không
cần kị húy chúa Nguyễn, nên mang khuynh
hướng dùng 'Chu' thả cửa? KHÔNG, Không phải.
Người Việt biến chuyển
'Châu' & 'Chu' qua lại với nhau, không phải
ở kị húy, mà bởi họ là hậu zuệ phần nào của
người Hẹ-cổ tức giống Bách Bộc xưa ở bên lưu
vực sông Hoàng Hà. Người Hẹ-cổ đã chuyển âm
Hoa 'Zhou' thành 'Zhu' và giữ vững 'Zhu' như
'Zhu' (Chu), hay đôi khi 'Châu' trước khi họ
zi cư sang xứ Việt cổ. Biến chuyển này nằm
gọn trong một biến chuyển thường xuyên hơn
giữa các phương ngữ ở Hoa Nam. Đó là biến
chuyển giữa âm [iu] và [âu] (hay [ou] hoặc
[ao]). Thí dụ: cầu => kiều. Quảng Đông: gau
=> Phúc Kiến: Kau => Hẹ: Giu / Kieu. Tài tử
Andy Lau (QĐ) => De Hua Liu (qt,
tức Lưu Đức Hoa). Yêu cầu (V)=> Yau kieu
(P.Kiến). Hưu (trí)=> Jau (qđ) => Hiu (Hẹ).
Định luật 'au-iu' phát
hiện qua loạt bài 'Từ chữ Nôm': 'Nếu một
phương ngữ tiếng Hoa có từ mang âm [iu], thế
nào cũng có từ tương đương thuộc phương ngữ
khác mang âm [au] (hay [ou] hoặc [ao]). Và
ngược lại, có [ou] ở chỗ này, thế nào cũng
có [iu] chỗ khác'.
Do đó khi quan thoại cho
âm [Zhou] tức 'Châu':
-
Quảng Đông gọi
[zau]
-
Phúc Kiến hay
Triều Châu, lại gọi: [Chiu]
-
Thượng Hải:
[zhou], và đặc biệt
-
HẸ: [zhiu] hay
[ZhU]. [Zhu] chính là [zhiu] lột bỏ đi âm
[i] khi đọc tắt và nhanh. Hẹ đọc [Zhu] y hệt
như kiểu Việt cho từ cả quan thoại lẫn quảng
đông đều đọc [zhâu]. Thí dụ: Mùa Thu, quan
thoại đọc [qiu], quảng đông: [tsau] => Hẹ:
[tsiu] => lột [i] => [tsu] => THU (mùa Thu).
Trong khi đó, lúc quan
thoại phát âm [Zhu] tức 'Chu'. Khuynh hướng
vẫn giữ nguyên âm [zhu] bởi không phải
[zhiu] (để có thể biến qua trở lại với
[zhou]):
-
Quảng Đông gọi
[zyu] (tức không hẳn là [ziu] để cho phép
chuyển sang [zou])
-
Phúc Kiến và
Triều Châu gọi [Chu]
-
Thượng Hải:
[zhi], và
-
HẸ: [zu] hay
[zhu] => Việt: vẫn giữ [Zhu] => 'Chu'.
Tóm lại người Việt, đặc
biệt phía Bắc, không phải vì lộn xộn kị húy
Chúa Nguyễn Phúc Chu, khi họ tống các từ
đáng nhẽ phát âm [Châu] luôn hết vào [Chu],
nhưng vì họ đã đọc và nói y hệt trung thực
với bản năng của người có gốc Bách Bộc tức
Hẹ-cổ. Bởi phát âm [Zhou] khi sang phương
ngữ Hẹ cổ đã được biến âm hai lớp. Lớp đầu
[Zhou] trở thành [Zhiu]. Lớp thứ hai [Zhiu]
đọc rất nhanh sẽ bị lột mất âm [i] và trở
thành [Zhu], tức [Chu] tiếng Việt. Viva
[Châu] * [Chu].
TÓM TẮT
Trong bài thứ 3 có vẻ khá khô
khan này, chúng tôi đã cố gắng kết thúc một
lối minh giải rất sâu rộng, lôi ra hết các
thành tố quan trọng và chủ lực, để có thể
kết luận:
Người Hẹ chính là hậu zuệ của
nhóm tộc du mục Bộc Việt, ngày xưa sống cuộc
đời nay đây mai đó, bên bờ sông Hoàng Hà,
sông Bộc, sông Vị, sông Lạc ở miền cực Bắc
nước Tàu. Trước sự đàn áp khủng bố khốc liệt
của Hoa chủng, họ lần lượt di tản về những
nơi khác. Một khối đi theo tộc Hmong (tức
Miêu-Yao) sang miền Triều Tiên trở thành một
trong ba đám rợ Tam Hàn. Một nhóm khác lần
mò về hướng Nam, đa số chia xẻ địa bàn với
chủng Thái-cổ tại nước Sở chung quanh sông
Dương Tử và sông Hán. Từ đó, trong hằng trăm
hằng ngàn năm, họ tản mác di động khắp miền
Hoa Nam. Có một số đông chán ngán cuộc đời
du mục nên cùng với chủng Thái-cổ xuống sâu
phía Nam rồi cuối cùng định cư ở vùng bình
nguyên sông Hồng. Nơi đó đã có những người
Môn - Khmer, cùng những chi tộc Thái-cổ
khác, đến trước rồi.
Xin tóm tắt 9 lối lập luận
chính đã dẫn đến kết luận rất quan trọng kể
trên, như sau.
1. Ngạn ngữ: 'Trên Bộc dưới
dâu', phổ biến ở Việt Nam hơn Trung Hoa
2. Địa điểm xuất xứ người Hẹ
giống y như đám Đông Yi, trong đó có Bách
Bộc, sau này xuống Sở, được gọi Bộc Việt.
Đông Di có đám nhuộm răng đen, xâm mình.
3. Bách Bộc là dân du mục. Hẹ
cũng vậy. Từ Yue = Việt có cách viết
越
bao gồm 'tẩu', nghĩa 'đi,
chạy' + 'cái móc' + 'giáo, mác'. Tức Việt,
một danh từ riêng, chỉ có thể mang nghĩa
'Một giống dân du mục sống bằng nghề săn
bắn'.
4. Bách Bộc thuộc đám Đông
Yi, y như người Hmong (Miêu). Đám Đông Yi di
tản sang Triều Tiên. Người Bách Bộc có đám
khác chạy xuống nước Sở, rồi về sau cùng
chủng Thái-cổ (Âu) di tản tuốt sang xứ Việt
cổ. Ngày nay cả ba thứ người Hẹ, Triều Tiên
(Hàn) và Việt, nhất là người Hàn, đều thích
món 'mộc tồn'.
5. So sánh về di truyền,
nhân chủng cho biết: Người Hẹ có DNA giống
thứ của dân Hoa Nam, chứ không giống Tàu.
Diện mạo người Hẹ, với tóc dợn sóng, sóng
mũi cao, chiều cao khác với Hoa tộc ở miền
Hoa Bắc. Chỉ số sọ người Sơn Đông, tức địa
bàn ban đầu của dân du mục Bách Bộc rất
giống với chỉ số sọ của dân Việt Nam, và
trên chỉ số sọ Hoa tộc đến khoảng 5 đơn vị.
6. Sử Việt thường liên kết
dân Việt với thị-tộc Việt Thường, nhóm người
rất hiếu hoà đã cử đại sứ đem con chim Trĩ
đến biếu vua nhà Châu vào khoảng năm 1120
TCN để làm quen. Địa bàn thị tộc Việt Thường
này rất gần với kinh đô nhà Châu ở đất Thiểm
Tây. Việc họ tặng con chim Trĩ cho thấy họ
là dân du mục sinhsống bằng sănbắn. Người
Tàu đầu tiên viết Lạc bộ Trãi dùng mô tả
Việt tộc, từ kỉ niệm con chim Trĩ ban đầu
đó, bởi chữ Trĩ và Trãi có phát âm y như
nhau [zhi] trong tiếng Tàu.
7. Khi Trần Thủ Độ soán ngôi
nhà Trần, hoàng thân quốc thích nhà Lý vội
vã đánh con bài 'tẩu'. Họ căng buồm chạy về
hướng Sơn-Đông / Triều Tiên, và cho rằng đó
chính là nơi chôn nhau cắt rốn của tổ tiên
họ, tức Việt tộc (nhóm Lạc).
8. Tại Quảng Bình, có một
nhóm người dân tộc gốc Việt mang tên người
Nguồn. 'Nguồn' theo thiển ý, chính là âm
lệch đi của 'Ngìn'. Trong tiếng Hẹ, [Ngìn]
mang nghĩa 'Người'.
9. So sánh các tài liệu ngôn
ngữ thật sâu rộng trải ra trọn 3 bài đã giúp
chúng ta kết luận khá vững chắc người Hẹ
chính là người Bách Bộc (cũ), và chính là
thành phần nòng cốt của chủng Lạc Việt, đã
phối hợp với chủng Âu (tức Thái cổ), tạo
dựng tiến hoá nên người Việt Nam, trên nền
tảng bản địa sẵn có là Môn-Khmer. Ba thứ từ
thông dụng chỉ 'con Chó' có thể tóm tắt được
thành phần chủng tộc căn bản của người Việt
Nam:
Chó <=> MônKhmer, Má <=>
Thái-cổ, và Cầy <=> Việt-cổ (tức Hẹ cổ).
Tuy nhiên, vẫn còn một
điểm khá gay cấn, thật ra lấn cấn, có thể
được các học giả Hoa xử dụng để phản bác
thuyết ở đây. Tức là thuyết lôi kéo rủ rê
người Hẹ đi nhậu món mộc tồn, rồi nhìn bà
con với người Hàn và người Việt. Đó chính là
sự kiện từ xưa đến nay người ta rất ít khi,
hoặc chưa hề, tìm được xương sọ thuộc chủng
Yueh, tức Bách Việt, ở miền Hoa Bắc (phía
Bắc sông Dương Tử) [1]. Bình Nguyên Lộc đi
quanh vấn đề này và cho rằng Việt tộc chỉ
mới định cư tại Hoa Bắc chừng 5-10 năm thì
bị Hoa chủng do Hiên Viên Hoàng Đế lãnh đạo
đánh đuổi chạy hết về miền Hoa Nam, hoặc
tuốt sang bán đảo Triều Tiên cùng với người
Miêu (Hmong) và nhiều đám rợ khác. Lối giải
thích này có vẻ rất gượng ép và mâu thuẫn
với nhiều dấu vết cho thấy đám Bách Bộc (Lạc
Việt bộ Trãi) vẫn còn tồn tại ở Hoa Bắc vào
thời Chiến quốc và mãi về sau.
Sự thật theo lí giải chúng
tôi, tộc Việt thuở chưa ra khỏi địa bàn Hoa
Bắc chắc chắn mang tục chôn cất người chết
bằng lối hỏa táng. Người Khương, tức Qiang
羌,
hồi xưa có khi Hoa tộc gọi Lạc bộ Khương,
chính là tộc người chuyên môn việc hoả táng
người chết. Khoảng thời gian cách đây
5000-10000 năm và lùi về trước, người Khương
có lẽ là tiền thân, hoặc có bà con rất gần
với tộc Thái-cổ (Âu) và tộc Việt-cổ (Lạc).
Một trong những hậu duệ của người Khương
chính là người Chăm, với tục hỏa táng được
rất nhiều người biết đến. Một số tộc người
Khương thuần túy vẫn còn tồn tại đến ngày
nay tại khu vực Tứ Xuyên bên Tàu.
Thuyết về Khương tộc cũng rất nhiều. Có
thuyết cho rằng người Khương xuất xứ từ miền
Tây nước Tàu, và chính họ cũng đã góp phần
với các chủng như Hung Nô, Mông Cổ,
Tô-kha-res,... tạo nên Hoa chủng. Có thuyết
cho rằng họ là tiền thân hoặc bà con rất gần
với hai chủng Âu và Lạc thuộc khối Bách Việt
xa xưa. Đặc biệt điểm có thể nhìn nhận văn
minh người Khương có vẻ phát triển khá sớm.
Từ đó chúng ta sẽ không lấy làm lạ để đặt
lên một giả thiết rằng khi văn minh Hoa Hạ
chưa nổi lên lấn át các nền văn minh khác,
có lẽ văn minh chủ lực tại Hoa Bắc chính là
văn minh người Khương. Theo đó tục hỏa táng
được rất nhiều tộc du mục ở phía Bắc hâm mộ
và bắt chước. Trong những tộc xử dụng lối
hỏa táng người chết đó, có đám Bách Bộc, tức
Hẹ-cổ, thuộc chủng Yueh.
Ghi Chú
[1] Bình Nguyên Lộc
(1971) Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt
Nam. Nxb Xuân Thu, tái bản tại Hoa Kỳ.
[2] Phạm Quỳnh (1997)
Hành trình nhật ký. Ý Việt (France) tái bản.
Trong quyển sách này, Phạm Quỳnh đã dùng âm
cũ của 'thất' là 'sất'. Ông viết 'sất phu'
thay vì 'thất phu'.
[3] Bình Nguyên Lộc trong
Quyển Mã Lai [1] cũng đã tổng quát hoá và
thu gọn thành 2 đợt di dân đến xứ Việt cổ,
cùng một chủng duy nhất Mã Lai, cách đâ 5000
năm và 2500 năm, và hoàn toàn không liên kết
với biến động thời Xuân Thu Chiến Quốc bên
Tàu. Xuất xứ 2 đợt này, rất lộn xộn. Khi thì
từ khu vực Tây Tạng ghé Tàu, lúc thì từ Hoa
Bắc, và có lúc lại từ nước Sở. Và tất cả các
giống dân Đông Nam Á đều mang cùng một
chủng: Mã Lai. Theo thuyết giải mã loạt bài
này, di tản từ Hoa lục sang xứ Việt cổ xảy
ra từ thời xa xưa, và trải ra rất nhiều đợt.
Những đợt đông đảo nhất, xảy ra trong vòng
800 năm trước Công Nguyên. Vào các thời điểm
đó, rất khó còn một chủng zuy nhất sống trên
một địa bàn rộng lớn như miền Nam sông Dương
Tử của nước Tàu ngày nay.
[4] Để ý trong các phương
ngữ, từ [vong] tiếng Việt có tương đương với
[bong] Mân (Phúc Kiến). Cho thấy âm [V] biến
chuyển qua lại với âm [B] giữa các phương
ngữ Bai Yue (Bách Việt) như kiểu [vách] với
[biak], giữa Việt và Hẹ, hay Bắc bộ và Nam
bộ.
[5] Qua các phân tích
trong loạt bài 'Từ chữ Nôm...' chúng tôi mạo
muội cho rằng 'Hán-Việt' là một từ dùng sai
trật nếu với hàm ý rằng tiền nhân ở Việt Nam
phát âm chữ Hán theo tiếng 'Hán Việt'. Thí
dụ: [Mất] từ xưa tưởng là một từ 'thuần
Nôm'. Qua bài này, ta thấy [mất] chính là
[mok] hay [mong], hoặc [bong] hay [vong].
[Vong] chính là [wang] Hán quan thoại. Như
vậy, có phải chăng tiền nhân thật ra phát âm
[wang] tức [vong], như là [mong] hay [bong]
hoặc [mok] rồi biến ra [mất] bởi quốc ngữ.
Vấn đề tiền nhân phát âm chữ Hán ra sao, từ
trước đến nay chưa hề có một cuộc nghiên cứu
sâu rộng nào hết. Do đó chúng tôi có khuynh
hướng dùng cụm từ 'Hán-quốc-ngữ' để thay cho
'Hán Việt'.
[6] Âm [By] (phiên âm
quốc tế [bj]) theo kiểm chứng với lối đánh
vần chữ Nôm (xem 'Từ chữ Nôm đến quốc ngữ')
đã chiếm đến 50% của những từ đánh vần bắt
đầu bằng chữ 'V': vách, vua, vợ, việc,
vui,... Đó là âm [bj] trong từ 'beauty'
(đẹp) tiếng Anh, người Mường vẫn còn giữ,
khá đúng với cách phát âm thời Nôm. Các tôn
sư quốc ngữ, đã gộp tất cả những âm [bj],
[w] như: con woi, đi wir, wững wàng, ...
(gốc Thái cổ), và [v] (gốc Hẹ) lại thành kí
âm bằng một chữ 'V' duy nhất. Âm [bj] vẫn
được dùng trong quyển từ điển đầu tiên
An-Nam-Bồ-Latin của Alexandre de Rhodes
(giữa thế kỉ 17), và ngày nay đối với tiếng
Mường. Nhưng theo qui luật kí âm của những
vị 'sáng chế' chữ quốc ngữ, âm [y] tức
[j]-quốc-tế bị lột khỏi [bj], để trở thành
'B' trong lối đánh vần: ông Bua ([bjua] =
vua), bà Bợ ([bjợ] = vợ). Việc gộp 3 âm
[bj], [w], [v] thành 'V' duy nhất tạo nên
phân cực: phía Bắc đọc [v] theo quốc tế,
nhưng phía Nam (nhất là Nam bộ) giữ 'phân
nửa' kiểu cũ vẫn đọc [bj]. Ở phía Bắc người
Mường và một số người dân tộc hãy còn giữ
phát âm [bj] cho một số từ có lối đánh vần
tiếng Việt bắt đầu bằng 'V'. Điển hình với
việc dẹp bớt âm [j] là chữ 'Bưu' trong 'Bưu
Điện'. Âm Nôm của 'Bưu' bắt buộc phải là
[Byưu] mới đồng thuận với tất cả phương ngữ
bên Tàu: Quan thoại: [You Ju]: bưu cục, với
[you] => âm [byau] hay [byưu]. Triều Châu:
[yiu kuk], Quảng đông: [Yau kuk], Hải Nam:
[Jiu dian] (bjiu điện).
[7]
http://www.asiawind.com/hakka/language.htm#compared
http://www.sungwh.freeserve.co.uk/sapienti/cjkvnum.htm
[8] Từ điển Hakka trên
mạng:
sungwh.freeserve.co.uk/sapienti/hdindexc.htm
[9] Tiếng Anh, động từ
'to lose' (mất, thua) cũng mang nghĩa
'chết'. Nhưng cách dùng hơi khác:
-
A fireman lost
his life when he tried to rescue three
persons still trapped inside the house: Một
người cứu hỏa mất mạng khi ông cố cứu 3
người hãy còn bị kẹt trong nhà.
-
The Enemy: 9
dead; our side, we lost 5. Sau một trận
đánh, phe địch tổn thất 9 người, trong khi
phe ta mất 5.
[10] Chỉ số sọ tức
cephalic index hay cranial index là tỉ số bề
ngang tối đa của sọ trên chiều dài lớn nhất,
nhân cho 100. Sọ tròn có chỉ số trên 80. Sọ
dài, chỉ số 75-80. Tròn hay dài không ảnh
hưởng gì đến thông minh hết. Trước khi người
ta tìm ra di-truyền thể DNA, chỉ số sọ rất
phổ biến.
[11] Trong chừng 60 năm
nay, nhiều giới tại và bên ngoài nước Việt
Nam, ưa cổ vũ việc thay thế chữ /D/ bằng
/Z/. Nhưng rất tiếc, có vẻ không một nhóm
nào có thể biện giải đề ra một căn bản lý
thuyết hay lịch sử, cho có 'bài bản'.
Cũnggiống như hiệntượng thích biến tiếngViệt
thành đa-âm, viết haibatừ dínhliềnnhau. Theo
thiển ý vấn đề hết sức phức tạp, bởi tiếng
Tháicổ không có âm [Z], còn tiếng của tộc
Việtcổ phảnánh qua tiếng Hẹ cũng cho thấy
tìnhtrạng phâncực 50:50, phânnửa theo [Z]
phânnửa theo [Y]. QuảngĐông và Quanthoại
chuyên yùng [Y] cho các âm Việt bắtđầu bằng
[D]. Hải Nam, có từ dùng âm nằm giữa [Z] và
[Dz], có từ lại dzùng [Y]. Thay /D/ bằng /Z/
trong tiếng Việt lại cũng không chínhxác về
ngữ-âm. Bởi âm [D] người phía Bắc phátâm có
vẻ là 'âm tắc sát tỏ' [Dz] hơn là kiểu âm
sát (nứu) [Z] như theo tiếng Anh: haZard,
craZy, Zero. Điểm khó khăn khác: Trong khi
có thể kiểm chứng tiền nhân phát âm [V] (tức
[W]) hay là [Bj] (bà vợ [bjợ]), qua đánhvần
chữ Nôm, kiểmchứng âm [D] rất khó, bởi những
từ gốc Hán dzùng 'D' (như: dinhdưỡng) chưa
hề và không thể qui về, hoặc đốichiếu riêng
với một phươngngữ nào trong tiếng Hoa. Phát
âm 'Hán Việt', theo thiển ý, có vẻ lệthuộc
vào phátâm quốcngữ, và như sẽ chứng minh
trong những bài sau, cũng dựa trên lối phát
âm xa xưa, khi người Lạc Việt hãy còn cư ngụ
ở miền Hoa Nam.
[12] Randy J. LaPolla
(2000) The role of migration and language
contact in the development of the
Sino-Tibetan language family. IN: Areal
Diffusion and Genetic Inheritance: Case
Studies in Language Change. Ed. by R.M.W.
Dixon & A.Y. Aikhenvald. Oxford University
Press
[13] L. Sagart (2001)
Gan, Hakka and the formation of Chinese
dialects. Centre de Recherches Linguistiques
sur l'Asie Orientale. Ecole des Hautes
Etudes en Sciences Sociales (UMR 8563 du
CNRS), Paris - France.
[14] Thí dụ: Chân = cẳng
= giò. Tiếng Việt sau nhiều năm, có vẻ phân
biệt ra 'giò' để chỉ thú vật: 'giò heo'.
Tiếng Hẹ: [ka] => cẳng, và [giok] => giò.
Quảng Đông: [geuk] hay [gok] => cẳng & giò.
Quanthoại: Jiao => giò. Ngô-Việt: [Tsa] =>
chân. Môn-Khờ-Me: [Zâng]=> Chân, hay
[Kơng]=> Cẳng.
[15] 'Châu Nhuận Phát' giữ
vững họ 'Châu' trong tiếng Việt, y hệt như
âm tiếng Quảng Đông. Bởi Châu Nhuận Phát tuy
người gốc Hẹ, nhưng tên tuổi vang lên như
cồn như một tài tử người HongKong. Và người
HongKong phát âm họ của tài tử này bằng:
[Zhau].
[16] Trân Châu Cảng = Pearl
Harbor, thuộc quần đảo Hạ-Uy-Zi. Nhật dội
bom vào căn cứ quân sự Mỹ sáng chủ nhật 7
tháng Chạp 1941, khiến Mỹ quyết liệt tham
chiến thế chiến thứ II.